Bản án 15/2020/HNGĐ-ST ngày 13/07/2020 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ SA ĐÉC - TỈNH ĐỒNG THÁP

BẢN ÁN 15/2020/HNGĐ-ST NGÀY 13/07/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Trong các ngày 24 tháng 6 năm 2020 và ngày 13 tháng 7 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 05/2020/TLST-HNGĐ, ngày 03 tháng 01 năm 2020 về “Tranh chấp ly hôn”, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 12/2020/QĐXXST-HNGĐ, ngày 01 tháng 6 năm 2020 và quyết định hoãn phiên tòa số: 06/2020/QĐST-HNGĐ, ngày 24 tháng 6 năm 2020 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị H - sinh năm: 1977 (có mặt).

Đa chỉ: 68/8, khóm H, Phường T, TP S, tỉnh Đồng Tháp.

- Bị đơn: Anh D - sinh năm: 1975 (vắng mặt không lý do).

Đa chỉ: 68/8, khóm H, Phường T, TP S, tỉnh Đồng Tháp.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Quá trình tham gia tố tụng tại tòa án, nguyên đơn là chị H trình bày:

- Về hôn nhân: Chị H và anh D tự quen biết và tìm hiểu nhau vào năm 1996 và tiến tới hôn nhân vào tháng 10 năm 1996. Có tổ chức đám cưới, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Hòa Thành, huyện V, tỉnh Đồng Tháp vào năm 2001. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2014 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do anh D thường xuyên uống rượu bia, khi về nhà thì kiếm chuyện gây gổ, đánh đập vợ con. Ngoài ra, chị H còn phát hiện anh Dũng có quan hệ tình cảm với người phụ nữ khác; mặc dù gia đình hai bên đã can ngăn, nhưng anh D không sửa đổi. Từ năm 2018 đến nay, chị H và anh D không còn chung sống với nhau. Nay nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn giữa vợ chồng không thể hàn gắn, chị H yêu cầu ly hôn anh D.

- Về nuôi con chung: Quá trình chung sống, có 01 con chung tên T - sinh năm: 2001. Hiện con đã thành niên nên chị H không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.

- Về chia tài sản chung và nợ chung: Chị H xác định là không có, không tranh chấp và không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.

Quá trình tham gia tố tụng tại tòa án, bị đơn là anh D vắng mặt không lý do và cũng không có văn bản trình bày ý kiến:

Mặc dù đã được Tòa án tống đạt hợp lệ Thông báo về việc thụ lý vụ án và các văn bản tố tụng khác theo quy định của pháp luật nhưng anh D không có văn bản trình bày ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Đồng thời, Tòa án cũng đã tống đạt hợp lệ Giấy triệu tập cho anh D nhiều lần nhưng anh D vẫn không đến Tòa án để tham dự phiên họp kiểm tra việc giao nộp tiếp cận, công khai chứng cứ, hòa giải và không tham gia phiên tòa theo quy định.

Ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa:

- Về việc chấp hành pháp luật tố tụng: Quá trình tiến hành tố tụng từ khi thụ lý vụ án cho đến khi xét xử và tại phiên tòa hôm nay; Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa cũng như các đương sự đều thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự; riêng bị đơn là anh D không thực hiện quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70 và Điều 72 của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Đại diện Viện kiểm sát thống nhất với trình tự thủ tục tiến hành phiên tòa xét xử vắng mặt bị đơn là anh D.

- Về hôn nhân: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị H.

- Về nuôi con chung: Có 01 con chung tên T - sinh năm: 2001, đã thành niên nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

- Về chia tài sản chung và nợ chung: Do chị H xác định là không có, không tranh chấp và không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

- Về án phí: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Nguyên đơn là chị H khởi kiện yêu cầu ly hôn anh D là loại vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Sa Đéc theo quy định tại khoản 1 Điều 28 và điểm a khoản 1 Điều 35 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

- Quá trình tham gia tố tụng: Bị đơn là anh D đã được Tòa án tống đạt hợp lệ Thông báo về việc thụ lý vụ án và các văn bản tố tụng khác theo quy định của pháp luật nhưng vẫn vắng mặt không có lý do; do đó Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự; xét xử vắng mặt anh Nguyễn Ngọc D.

[2] Về nội dung, Hội đồng xét xử xét thấy:

- Về hôn nhân: Chị H và anh D chung sống vợ chồng từ năm 1996, trên cơ sở tự nguyện, có tổ chức đám cưới và có đăng ký kết hôn vào năm 2001 tại UBND xã Hòa Thành, huyện V, tỉnh Đồng Tháp. Do đó, quan hệ hôn nhân giữa chị H và anh D được xác định là hôn nhân hợp pháp.

Tuy nhiên, trong quá trình chung sống, giữa chị H và anh D đã phát sinh nhiều mâu thuẫn; nguyên nhân là do anh D thường xuyên ăn nhậu, khi về nhà thì kiếm chuyện gây gổ, đánh đập vợ con; Ngoài ra, anh Dũng còn có quan hệ tình cảm với người phụ nữ khác bên ngoài. Chị H và gia đình của cả hai bên đều đã khuyên nhủ nhiều lần nhưng anh D không nghe, không chịu sửa đổi. Từ đó, vợ chồng thường xuyên cự cãi, tình cảm ngày càng bị tổn thương, rạn nứt, không thể hàn gắn. Từ năm 2018 đến nay, chị H và anh Dũng không còn chung sống với nhau.

Ti phiên tòa, chị H xác định là không còn tình cảm với anh D, mâu thuẫn vợ chồng không thể hàn gắn, cuộc sống hôn nhân với anh D không có hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được; chị H không thể tiếp tục chung sống với anh D; trường hợp Tòa án không cho ly hôn thì chị H cũng không trở về sống chung với anh D. Chị H cương quyết xin được ly hôn anh D.

Về phía anh D: Quá trình tham gia tố tụng từ khi thụ lý vụ án cho đến khi xét xử, anh D đã được Tòa án tống đạt hợp lệ và niêm yết đầy đủ các văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật nhưng anh D không có văn bản trình bày ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của chị H, không đến tham dự các buổi hòa giải cũng như phiên tòa hôm nay. Như vậy, anh D đã từ chối các quyền và nghĩa vụ của mình do pháp luật quy định. Bản thân anh D cũng không mong muốn hàn gắn tình cảm với chị H nên đã không đến Tòa án để tham gia hòa giải, không cung cấp tài liệu chứng cứ để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.

Tại khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “1. Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được…”.

Trên cơ sở đó, Hội đồng xét xử xét thấy: Mâu thuẫn vợ chồng giữa chị Hồng và anh D đã thực sự trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, vợ chồng không có sự thương yêu, quan tâm lẫn nhau. Giữa chị H và anh D cũng không có biện pháp gì để hàn gắn tình cảm vợ chồng. Hơn nữa, quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án từ khi thụ lý vụ án đến nay, anh D không đến Tòa án tham gia hòa giải, xét xử cũng không có văn bản ý kiến, trình bày gì đối với yêu cầu xin ly hôn của chị H. Từ đó cho thấy, bản thân anh D cũng không có thành ý muốn hòa giải, đoàn tụ tiếp tục chung sống với chị H. Nếu chị H và anh D đoàn tụ tiếp tục chung sống vợ chồng thì cũng không có hạnh phúc. Đồng thời, tại phiên tòa hôm nay, chị H xác định là không còn tình cảm, không muốn hàn gắn, tiếp tục chung sống với anh D, cuộc sống hôn nhân với anh D không có hạnh phúc. Do đó, xét thấy việc chị H yêu cầu được ly hôn anh D là có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

- Về nuôi con chung: Có 01 con chung tên T - sinh năm: 2001. Hiện con đã thành niên nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

- Về chia tài sản chung và nợ chung: Do chị H xác định là không có, không tranh chấp và không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[3] Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị H phải chịu toàn bộ tiền án phí dân sự sơ thẩm (về ly hôn) theo quy định của pháp luật.

[4] Đối với ý kiến đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa: Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ ý kiến đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào các Điều 28, Điều 35, Điều 147 và Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

- Căn cứ vào Điều 51 và Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Căn cứ vào Điều 27 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. anh D.

Tuyên Xử:

1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị H. Cho chị H ly hôn

2. Về nuôi con chung, chia tài sản chung và nợ chung: Tòa án không xem xét giải quyết.

3. Về án phí: Chị H nộp 300.000 (Ba trăm ngàn) đồng án phí dân sự sơ thẩm (về ly hôn). Số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng, chị H đã nộp ngày 03/01/2020 theo biên lai thu số: 0004417 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Sa Đéc được khấu trừ toàn bộ án phí phải nộp.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Nguyễn Ngọc D vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo luật định./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

214
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 15/2020/HNGĐ-ST ngày 13/07/2020 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:15/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Sa Đéc - Đồng Tháp
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 13/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về