Bản án 15/2019/HS-ST ngày 28/02/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIA LỘC, TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 15/2019/HS-ST NGÀY 28/02/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 28 tháng 02 năm 2019 tại trụ sở, Tòa án nhân dân huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương, mở phiên tòa công khai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 14/2019/HSST ngày 25 tháng 01 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 14/2019/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 02 năm 2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn N, sinh năm 1992 tại T, G, Hải Dương. Nơi cư trú: Thôn V, xã T, huyện G, tỉnh Hải Dương; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn C và bà Vũ Thị P; vợ, con chưa có. Tiền sự: Ngày 13/6/2018, Chủ tịch UBND xã T, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương ra quyết định về việc áp dụng biện pháp giáo dục tại xã đối với Nguyễn Văn N. Ngày 13/9/2018 N đã chấp hành xong Quyết định. 

Ngày 13/8/2018 Công an huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương ra Quyết định xử phạt hành chính đối với Nguyễn Văn N về hành vi Trộm cắp tài sản, hình thức phạt tiền. N chưa chấp hành Quyết định xử phạt. 

Nhân thân: Ngày 19/12/2018, Tòa án nhân dân huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương ra Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với Nguyễn Văn N.

Bị cáo bị tạm giam tại Trại tạm giam Kim Chi – Công an tỉnh Hải Dương từ ngày 28/12/2018 đến nay (Có mặt).

Người bị hại : Ông Trần Huy L, sinh năm 1952 và bà Đoàn Thị Q, sinh năm 1952. Địa chỉ : Thôn V, xã T, huyện G, tỉnh Hải Dương (Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).

Người làm chứng :

1. Ông Bùi Quý V, sinh năm 1953 (Có mặt). Địa chỉ : Khu A, thị trấn G, huyện G, tỉnh Hải Dương.

2. Anh Bùi Quý T, sinh năm 1989; Địa chỉ: Khu A, thị trấn G, huyện G, tỉnh Hải Dương. Hiện đang tạm giam tại Trại giam Kim Chi – Công an tỉnh Hải Dương trong vụ án khác (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Do là đối tượng nghiện ma túy, không có tiền tiêu sài nên khoảng 01h ngày 12/12/2018, Nguyễn Văn N nảy sinh ý định đi tìm tài sản sơ hở để trộm cắp. N đi bộ ra phía sau nhà mình và đi qua vườn nhà ông Trần Văn Y để sang nhà ông Trần Huy L, sinh năm 1952; trú tại thôn V, xã T, huyện G. Khi vào trong sân nhà ông L, N quan sát thấy trong lán để đồ gần nhà bếp và nhà vệ sinh có một chiếc máy giặt nhãn hiệu TOSHIBA màu trắng. N đi đến gần chỗ để máy giặt và dùng tay bê chiếc máy giặt đi ra bờ ao sau bếp nhà ông L. Sau đó N tiếp tục bê chiếc máy giặt đi qua bờ kè để ra chỗ tường bao ngăn cách giữa ao nước và đường đi trong thôn V, xã T, huyện G. Khi đi đến tường bao, N bê chiếc máy giặt để trên thành tường và trèo qua tường ra ngoài đường rồi N bê chiếc máy giặt xuống để dưới chân bụi tre ở rìa đường. Sau đó N về nhà mình lấy xe đạp đi ra chỗ để chiếc máy giặt rồi N đặt máy giặt lên phía sau xe đạp chở đi bán. Khoảng 03 giờ cùng ngày, N chở máy giặt đến nhà anh Bùi Quý T, sinh năm 1989 ở thị trấn G, huyện G, tỉnh Hải Dương. N đã bán chiếc máy giặt này cho anh T với giá 500.000 đồng. Số tiền này, N đã tiêu xài cá nhân hết.

Tại Kết luận định giá tài sản số 26/KL- HĐ ĐGTS ngày 26/12/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự UBND huyện Gia Lộc kết luận: Chiếc máy giặt nhãn hiệu TOSHIBA màu trắng, sản xuất tháng 8/2017, máy cũ đã qua sử dụng, tình trạng hoạt động bình thường, vào thời điểm bị cáo chiếm đoạt chiếc máy giặt trị giá là 2.800.000 đồng.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương truy tố về hành vi phạm tội đối với bị cáo, bị cáo khai nhận có hành vi lén lút vào gia đình nhà ông Trần Huy L người cùng thôn trộm cắp tài sản là 01 chiếc máy giặt trị giá 2.800.000đồng. Bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình và đề nghị HĐXXxét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Cáo trạng số 13/VKS – HS ngày 24/01/2019, Viện kiểm sát nhân dân huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương truy tố bị cáo Nguyễn Văn N về tội “Trộm cắp tài sản’’ theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quan điểm như đã truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn N phạm tội “Trộm cắp tài sản’’. Áp dụng khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn N từ 07 tháng đến 09 tháng tù, thời hạn tính từ ngày bắt tạm giam 28/12/2018.

Về trách nhiệm dân sự: Không đặt ra giải quyết. Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng.

Về vật chứng: Đối với chiếc máy giặt đã được thu hồi trả lại cho người bị hại nên không đặt ra giải quyết.

Đối với chiếc xe đạp N sử dụng làm phương tiện khi đi trộm cắp tài sản, sau đó N đã bán cho một người đi đường không biết tên tuổi, địa chỉ cụ thể được số tiền 100.000đồng nên truy thu của N số tiền này nộp ngân sách Nhà nước.

Về án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326 ngày 30/12/2016 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo Nguyễn Văn N phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa người bị hại ông Trần Huy L và bà Đoàn Thị Q vắng mặt, quá trình điều tra cũng như trong đơn đề nghị xét xử vắng mặt ông L và bà Quynh xác định tài sản của gia đình bị mất 01 chiếc máy giặt nhãn hiệu TOSHIBA màu trắng đã được Hội đồng định giá tài sản, định giá trị giá 2.800.000đồng, chiếc máy giặt này đã được thu hồi trả lại cho gia đình, máy không bị hư hỏng thiệt hại gì nên về trách nhiệm dân sự ông, bà không có yêu cầu, đề nghị gì đối với bị cáo.

Bị cáo nói lời nói sau cùng xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài L trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Gia Lộc, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Gia Lộc, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người bị hại, người làm chứng, vật chứng đã thu giữ, biên bản khám nghiệm hiện trường và các tài liệu, chứng cứ khác được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, HĐXX có đủ căn cứ kết luận: Vào khoảng 01 giờ 30 phút, ngày 12/12/2018 tại gia đình ông Trần Huy L ở thôn V, xã T, huyện G, tỉnh Hải Dương bị cáo Nguyễn Văn N có hành vi lén lút trộm cắp 01 chiếc máy giặt nhãn hiệu TOSHIBA màu trắng của gia đình ông L trị giá 2.800.000đồng, N đem bán chiếc máy giặt được 500.000đồng và tiêu xài cá nhân hết.

Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi lén lút trộm cắp tài sản của người khác là vi phạm pháp luật nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Tài sản bị cáo chiếm đoạt của người bị hại trị giá 2.800.000đồng đủ yếu tố cấu thành tội trộm cắp tài sản, quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Do đó, Quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương đối với bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, gây tâm lý không yên tâm cho chủ sở hữu trong việc quản lý tài sản, ảnh hưởng xấu đến trật tự an ninh tại địa phương. Do vậy cần thiết phải xử lý bị cáo bằng pháp luật hình sự để giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành người tốt có ích cho gia đình và xã hội.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ “Người phạm tội thành khẩn khai báo” quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

[5] Căn cứ quy định của bộ luật hình sự, cân nhắc các tình tiết giảm nhẹ, nhân thân của bị cáo thì thấy: Ngày 13/6/2018, Nguyễn Văn N bị Chủ tịch UBND xã Thống Nhất, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương ra quyết định về việc áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, thời hạn 03 tháng. Ngày 13/8/2018 Nguyễn Văn N bị Công an huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương ra Quyết định xử phạt hành chính về hành vi Trộm cắp tài sản, hình thức phạt tiền. N chưa chấp hành Quyết định xử phạt. Nhân thân ngày 19/12/2018 bị Tòa án nhân dân huyện Gia Lộc ra Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Như vậy bị cáo đã có tiền sự chưa được xóa, có nhân thân xấu nay lại phạm tội thể hiện ý thức coi thường pháp luật của bị cáo. Do vậy cần phải có hình phạt nghiêm khắc tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian mới đủ tác dụng giáo dục đối với bị cáo và phòng ngừa chung.

[6] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có việc làm ổn định, không có tài sản riêng nên HĐXX không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Trong quá trình điều tra và trong đơn đề nghị xét xử vắng mặt, người bị hại ông ông Trần Huy L và bà Đoàn Thị Q xác định đã nhận lại tài sản chiếc máy giặt đã bị cáo N trộm cắp, tài sản không bị hư hỏng thiệt hại gì, ông L và bà Q không yêu cầu bị cáo bồi thường gì nên HĐXX không xem xét giải quyết.

[8] Về vật chứng: Quá trình điều tra, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Gia Lộc quản lý chiếc máy giặt do bị cáo Nguyễn Văn N mang bán cho anh Bùi Quý Thích, ngày 17/01/2019 Cơ quan CSĐT Công an huyện Gia Lộc đã trả lại chiếc máy giặt cho gia đình ông L. Việc xử lý vật chứng của Cơ quan CSĐT Công an huyện Gia Lộc là phù hợp pháp luật nên HĐXX không đặt ra giải quyết.

Đối với chiếc xe đạp Nguyễn Văn N sử dụng làm phương tiện phạm tội, N khai là tài sản của N, sau khi phạm tội N đã bán chiếc xe này cho một người đi đường không rõ tên tuổi, địa chỉ được số tiền 100.000đồng, số tiền này liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo cần truy thu nộp ngân sách Nhà nước.

[9] Về án phí: Bị cáo phạm tội nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự. Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016.

 [Các vấn đề khác] Đối với anh Phạm Quý T là người mua chiếc máy giặt của N, quá trình điều tra đã xác định anh T không biết đây là tài sản do N trộm cắp mà có nên không có căn cứ xử lý đối với anh T. Đối với số tiền 500.000 đồng mà anh T đã trả cho N để mua chiếc máy giặt, quá trình điều tra anh T có quan điểm do số tiền không lớn nên không yêu cầu N phải trả lại cho anh T, anh T cho N số tiền đó nên HĐXX không đặt ra giải quyết.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn N phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Về điều luật áp dụng: Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106; khoản 2 Điều 136; Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

3. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn N 08 (tám) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam 28/12/2018.

4. Về xử lý vật chứng: Truy thu của bị cáo Nguyễn Văn N số tiền 100.000đồng (một trăm nghìn đồng) nộp vào ngân sách Nhà nước.

5. Về án phí: Bị cáo Nguyễn Văn N phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

6. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Người bị hại được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

191
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 15/2019/HS-ST ngày 28/02/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:15/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Gia Lộc - Hải Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/02/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về