Bản án 15/2019/HS-ST ngày 23/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN K - TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 15/2019/HS-ST NGÀY 23/04/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 23 tháng 4 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện K, tỉnh Ninh Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 14/2019/HSST ngày 29 tháng 3 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 16/2019/QĐXXST-HS  ngày 11/4/2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Cù Văn B, sinh năm 1989 tại: huyện K, tỉnh Ninh Bình. Nơi ĐKHKTT, chỗ ở: xóm 1, xã K, huyện K, tỉnh Ninh Bình; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá: 8/12; dân tộc: kinh; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Cù Văn L (đã chết) và bà Ngô Thị H; có vợ là Phạm Thị D và 02 con; tiền án, tiền sự: không. Lịch xử bản thân: Quyết định số 09 ngày 17/12/2013 công an huyện Y tỉnh Ninh Bình xử phạt Cù Văn B 1.000.000đ về hành vi trộm cắp tài sản, đã chấp hành xong. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 06/01/2019, chuyển tạm giam tại trại tạm giam công an tỉnh Ninh Bình từ ngày 07/01/2019( có mặt ).

*Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Trần Văn H1, sinh năm 1984 cùng vợ là chị Phạm Thị D1, sinh năm 1987; trú tại xóm 1, xã K, huyện K, tỉnh Ninh Bình (vắng mặt).

*Người làm chứng: Anh Nguyễn Văn L1 và anh Đỗ Văn C (đều vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau :

Cù Văn B là người sử dụng trái phép chất ma túy. Khoảng 13 giờ 00 phút ngày 06/01/2019, B mang theo 01 xi lanh và 02 ống Novocain, đi xe mô tô từ nhà ở xóm 1, xã K đến khu vực nghĩa địa thuộc xóm 11, xã H, huyện K tìm mua ma túy để sử dụng. Tại đây B gặp người đàn ông không quen biết và mua được của người này 02 gói ma túy với giá 150.000đ rồi cầm ở tay trái điều khiển xe đi tìm nơi sử dụng.

Khoảng 13 giờ 40 phút cùng ngày khi đi đến đoạn đường bê tông thuộc xóm 11, xã H, thấy vắng người B dừng xe định sử dụng ma túy thì bị tổ công tác công an huyện K phát hiện, bắt quả tang, thu giữ trên tay B 02 gói nhỏ, 01 xi lanh và 02 ống Novocain. Kiểm tra bên trong 02 gói nhỏ thu giữ của bị cáo là chất bột dạng cục màu trắng, 01 gói được gói ngoài bằng giấy bạc màu trắng có khối lượng là 0,13 gam (ký hiệu M1); 01 gói được gói ngoài bằng giấy bạc màu vàng có khối lượng 0,12 gam (ký hiệu M2) gửi toàn bộ đi giám định.

Bản kết luận giám định số 80/KLGĐ-PC09-MT ngày 07/01/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Ninh Bình kết luận: Mẫu chất bột dạng cục màu trắng gửi tới giám định ký hiệu M1 có khối lượng 0,1337 gam, M2 có khối lượng 0,1260 gam. Tổng khối lượng chất bột dạng cục màu trắng trong 02 mẫu gửi giám định ký hiệu M1, M2 là 0,2597 gam đều là chất ma túy, loại hê rô in.

Bản cáo trạng số 15/CT-VKS-KS ngày 29/3/2019 Viện kiểm sát nhân dân huyện K truy tố bị cáo Cù Văn B về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”  theo điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS năm 2015.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát huyện K vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố như nội dung cáo trạng nêu trên và đề nghị HĐXX tuyên bố bị cáo Cù Văn B phạm tội “ Tàng trữ trái phép chất ma tuý ”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; đ iểm s khoản 1, 2 Điều 51 BLHS năm 2015 xử phạt bị cáo Cù Văn B từ 15 đến 18 tháng tù.

Áp dụng các quy định của pháp luật để xử lý vật chứng đã thu giữ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên toà hôm nay bị cáo Cù Văn B hoàn toàn thừa nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung cáo trạng đã nêu. Bị cáo khai nhận bản thân là người sử dụng ma tuý bằng hình thức chích hê rô in từ đầu năm 2018. Khoảng 13 giờ 15 phút ngày 06/01/2019 sẵn có tiền trong người và lại có nhu cầu sử dụng ma túy, bị cáo mượn xe mô tô của vợ chồng người anh đồng hao đi tìm mua ma túy để sử dụng, khi đến khu vực nghĩa địa thuộc xóm 11, xã H bị cáo gặp một người đàn ông  không quen biết khoảng 60 tuổi, đoán là người nghiện ma túy nên đã hỏi và mua được của người đó 02 gói hêrô in với giá 150.000đ, sau khi mua được hê rô in bị cáo điều khiển xe tìm nơi vắng để sử dụng, khi tới đoạn đường thuộc xóm 11, xã H, thấy vắng người bị cáo dừng xe, lấy hai gói hê rô in ra định sử dụng thì bị công an phát hiện, thu giữ hai gói hê rô in bị cáo vừa mua và lập biên bản phạm tội quả tang đối với bị cáo.

Lời nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của những người làm chứng, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ như  biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản thu giữ và niêm phong vật chứng, biên bản cân xác định trọng lượng, lấy mẫu giám định, kết luận giám định hai gói bột thu giữ của bị cáo.

Như vậy đã có đủ cơ sở kết luận với hành vi cất giấu trong người 0,2597gam Hêrô in nhằm mục đích sử dụng, bị cáo Cù Văn B đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS năm 2015.

[2] Hành vi phạm tội của bị cáo mang tính chất nghiêm trọng và nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến việc quản lý độc quyền của nhà nước đối với các chất ma túy; bị cáo biết rõ nhà nước có những quy định xử lý nghiêm khắc đối với những người có hành vi liên quan đến ma túy nhưng vẫn thực hiện hành vi đi mua hêrôin tàng trữ để sử dụng cho bản thân, vì vậy cần phải xử lý nghiêm đối với bị cáo trước pháp luật, buộc bị cáo phải cách ly xã hội một thời gian tư ơng xứng với hành vi mà bị cáo đã thực hiện để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người công dân có ích cho gia đình và xã hội.

[3] Về tình tiết tăng nặng: b ị cáo không có tình tiết tăng nặng; Về tình tiết giảm nhẹ: b ị cáo khai báo thành khẩn; hoàn cảnh gia đình khó khăn, thuộc diện hộ nghèo, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo quy định tại đ iểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS năm 2015.

[4] Về nguồn gốc Hêrô in: Bị cáo B khai mua của một người đàn ông khoảng 60 tuổi ở khu vực nghĩa địa thuộc xóm 11, xã H, bị cáo không quen biết người đó, có gặp lại cũng không nhận dạng được vì vậy cơ quan điều tra Công an huyện K không đủ cơ sở để điều tra.

[5] Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp: Chiếc xe mô tô BKS 35K1-020.62 bị cáo sử dụng đi mua hê rô in là thuộc sở hữu của vợ chồng anh T rần Văn H1, chị Phạm Thị D1 ở xóm 1, xã K, anh H1 chị D1 không biết bị cáo dùng xe đi mua hê rô in, vì vậy cơ quan Cảnh sát điều tra công an huyện K đã trả lại chiếc xe trên cho anh H1, chị D1 là đúng quy định của pháp luật.

Vật chứng còn lại gồm 01 phong bì ghi số 80/2019/KLGĐ-PC09-MT bên trong có vật chứng còn lại sau giám định cùng vỏ niêm phong; 01 phong bì niêm phong, bên trong có vỏ bao gói niêm phong ban đầu; 01 phong bì niêm phong bên trong có 01 xilanh và 02 ống Novocain, đây là những vật không còn giá trị sử dụng, vật nhà nước cấm lưu hành, vì vậy cần tịch thu tiêu huỷ. Đối với căn cước công dân mang tên Cù Văn B, đây là giấy tờ tùy thân của bị cáo vì vậy cần trả lại cho bị cáo.

[6] Về án phí: Bị cáo Cù Văn B là đối tượng thuộc diện hộ nghèo vì vậy được miễn án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[7] Quá trình điều tra, truy tố, xét xử vụ án, Điều tra viên và Kiểm sát viên đã thực hiện hành vi tố tụng hoàn toàn hợp pháp theo đúng quy định của pháp luật.

Vì lẽ trên :

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Cù Văn B phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

+ Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1,2 Đ iều 51 Bộ luật hình sự năm 2015: Xử phạt bị cáo Cù Văn B 17 (mười bẩy) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ  bị cáo là ngày 06/01/2019.

+ Áp dụng Điều 47 BLHS; Căn cứ Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

- Trả lại cho bị cáo Cù Văn B 01 căn cước công dân mang tên Cù Văn B.

- Tịch thu cho tiêu hủy 01 phong bì niêm phong ghi số 80/KLGĐ-PC09-MT trên giáp lai có chữ ký của bên giao bên nhận và đóng dấu của phòng ký thuật hình sự, bên trong có chứa vật chứng còn lại và vỏ bao gói niêm phong; 01 phong bì niêm phong, trên phong bì có dấu niêm phong và chữ ký của các thành phần tham gia niêm phong, bên trong có vỏ gói ngoài các gói nhỏ ma túy là giấy bạc màu vàng và giấy bạc màu trắng và vỏ phong bì niêm phong khi thu giữ vật chứng của bị cáo; 01 phong bì niêm phong, trên phong bì có dấu niêm phong và chữ ký của các thành phần tham gia niêm phong, bên trong có 01 bơm tiêm loại 3ml, 02 ống Novocain 3% chưa qua sử dụng.

+    Căn cứ Điều 136 BLTTHS năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, miễn án phí hình sự sơ thẩm cho  bị cáo Cù Văn B.

Trường hợp bản án được thực hiện theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người có quyền, nghĩa vụ thi hành án có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án đư ợc thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Án xử sơ thẩm công khai, bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

193
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 15/2019/HS-ST ngày 23/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:15/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kim Sơn - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về