Bản án 15/2019/HS-ST ngày 16/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TRÀ VINH, TỈNH TRÀ VINH

BẢN ÁN 15/2019/HS-ST NGÀY 16/04/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 16 tháng 4 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 13/2019/HSST, ngày 15 tháng 3 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 14/2019/QĐXXST-HS ngày 01 tháng 4 năm 2019 đối với bị cáo:

Trần Quốc H, sinh ngày 01/01/1994; nơi cư trú: số 72/9, khóm A, phường B, thành phố Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh; nghề nghiệp: mua bán; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: công giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Chiếm T, sinh năm 1956 và bà Kỹ Thị Ngọc Đ, sinh năm 1959. Anh chị em ruột có 02 người lớn nhất sinh năm 1987, nhỏ nhất là bị cáo. Tiền án: không; tiền sự: không; bị bắt tạm giữ từ ngày 12/11/2018 đến ngày 15/11/2018 chuyển sang tạm giam cho đến nay; Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Trần Chiếm T, sinh năm 1956 (có mặt)

Nơi cư trú: số 72/9 khóm A, phường B, thành phố Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh.

- Người làm chứng: Anh Danh T, sinh năm 1986 (vắng mặt)

Nơi cư trú: ấp B, xã L, huyện Châu Thành, tỉnh Trà Vinh (Nơi làm việc: Kho hàng Doanh nghiệp tư nhân xe khách K).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trần Quốc H sử dụng ma túy đá (loại Methamphetamine) từ năm 2018. Do có như cầu sử dụng nên khoảng 07 giờ ngày 12 tháng 11 năm 2018 H chủ động liên lạc với Trần Quốc T, sinh năm 1976, ngụ số 128/39 Đ, phường 1, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh (đã quen từ trước) để nhờ mua ma túy đá. Đến khoảng 08 giờ 30 phút cùng ngày H đi đến doanh nghiệp tư nhân xe khách “Kim Hoàng” tại Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh gửi tiền lên thành phố Hồ Chí Minh cho T 6.000.000 đồng (Sáu triệu đồng) sau khi nhận được tiền T đã mua ma túy đá bỏ vào hộp gói lại gửi về Trà Vinh cho H qua dịch vụ xe khách “Kim Hoàng”, đồng thời T thông báo cho H biết mã hàng hóa (bên trong chứa ma túy đá) là “803041” và ghi số điện thoại người nhận 0794952272 (số điện thoại của H) cho H biết để nhận. Đến khoảng 17 giờ 40 phút cùng ngày H điều khiển xe mô tô Vespa, màu trắng, biển kiểm soát: 59Y1-764.43 (của cha ruột Trần Chiếm T) đi đến kho hàng hóa xe khách “Kim Hoàng” tại số 97, khóm 3, phường 2, thành phố Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh để nhận hộp có chứa ma túy bên trong. Nhận xong H đem ra xe định cất giấu thì bị lực lượng công an bắt quả tang cùng tang vật. Lực lượng công an đã tiến hành thu giữ và niêm phong tang vật đưa đi giám định.

Ngày 13 tháng 11 năm 2018 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh đã trưng cầu giám định chất ma túy.

Tại kết luận giám định số 553/KLGĐ-9C09 ngày 14 tháng 11 năm 2018 của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Vĩnh Long kết luận: Mẫu tinh thể trong suốt bên trong 01 (một) bịch nylon được niêm phong trong phong bì gửi giám định là ma túy, có khối lượng 9,9430 gam, loại Methamphetamine.

Đối với Trần Quốc T Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh, tuy nhiên qua xác minh T đã bỏ địa phương đi đâu không rõ nên chưa làm việc được, khi nào làm việc được sẽ xử lý sau.

Đối với ông Trần Chiếm T (cha ruột của H) do không biết việc H lấy xe của ông để làm phương tiện thực hiện hành vi phạm tội nên không đề cập vấn đề xử lý.

Đối với xe mô tô kiểu dáng Vespa màu trắng, biển kiểm soát 59Y1-764.43 đã được trao trả lại cho chủ sở hữu là ông Trần Chiếm T.

Đối với doanh nghiệp Kim Hoàng làm dịch vụ vận chuyển do không biết được hàng hóa là ma túy nên không đề cập xử lý.

Vật chứng của vụ án gồm:

- 01 (một) bao niêm phong mẫu vật hoàn trả số: 553/KLGĐ-PC09 ngày 14 tháng 11 năm 2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Long.

- 01 (một) cái hộp giấy hình chữ nhật có chữ CHARLES&KEITH;

- 01 (một) cân tiểu ly có chữ OPEN;

- 01 (một) bật lửa màu vàng đã qua sử dụng bị hư hỏng;

- 01 (một) bật lửa có chữ HAPHOCO bị hư hỏng, đã qua sử dụng;

- 01 (một) cây kéo màu trắng bằng kim loại đã qua sử dụng;

- 01 (một) cây giũa bằng kim loại một đầu tròn, một đầu dẹp;

- 01 (một) cây nỏ thủy tinh;

- 01 (một) ống thủy tinh;

- 01 (một) ống thủy tinh có màu xanh, vàng;

- 11 (mười một) bịch ny lon có viền màu xanh lá cây;

- 01 (một) bịch nylon có viền màu đỏ;

- 19 (mười chín) bịch nylon có viền màu xanh dương;

- 01 (một) tờ tiền 10.000 đồng (mười nghìn đồng) được cuộn tròn;

- 01 (một) điện thoai di động mobiistar B248i đã qua sử dụng;

- 01 (một) điện thoại di động hiệu NOKIA màu đen, model: TA-1034 đã qua sử dụng, kèm theo sim số 0794952272;

- 01 (một) hộp giấy có chữ NOKIA, Trà Vinh, T gửi: Hùng Số ĐT: 0794952272 và 01 tờ giấy có chữ Kim Hoàng SG, ngày 12/11/2018 09:32 803041 Tuấn>Hùng ĐT người nhận: 0794952272 Hàng hóa: 1 Hộp K.

- 01 (một) giấy chứng minh nhân dân mang tên Trần Quốc H;

Tất cả vật chứng trên đang được tạm giữ tại Chi Cục thi hành án dân sự thành phố Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh để đảm bảo quá trình xét xử.

Tại bản cáo trạng số 15/CT-VKSTPTV-HS ngày 11/3/2019 Viện kiểm sát nhân dân thành phố Trà Vinh đã truy tố Trần Quốc H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Điểm g khoản 2 điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Trà Vinh vẫn giữ nguyên quan điểm đã truy tố bị cáo Trần Quốc H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” như bản cáo trạng đã nêu. Sau khi phân tích, đánh giá các tình tiết, chứng cứ của vụ án và nhân thân của bị cáo. Vị đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: Điểm g khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1,2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Trần Quốc H từ 05 năm đến 06 năm tù, đồng thời đề nghị xử lý tang vật chứng và buộc bị cáo nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Lời nói sau cùng của bị cáo trước khi Hội đồng xét xử vào nghị án: bị cáo yêu cầu Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Trà Vinh, Điều tra viên. Viện kiểm sát nhân dân thành phố Trà Vinh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa hôm nay bị cáo Trần Quốc H đã khai nhận: Do bản thân nghiện ma túy. Vào khoảng 08 giờ 30 phút ngày 12/11/2018 bị cáo H gửi tiền lên thành phố Hồ Chí Minh cho Trần Quốc T nhờ mua dùm 6.000.000đ ma túy đá (9,9430 gam, loại Methamphetamine) để sử dụng. Đến khoảng 17 giờ 40 phút cùng ngày T gửi ma túy về cho bị cáo qua dịch vụ xe khách “Kim Hoàng” tại số 97, khóm 3, phường 2, thành phố Trà Vinh, sau khi nhận được ma túy bị cáo đem ra xe định cất giấu thì bị bắt quả tang cùng tang vật. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra, phù hợp với tang vật chứng đã thu giử cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận bị cáo Trần Quốc H đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” tội phạm và hình phạt được quy định tại Điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự. Như Viện kiểm sát nhân dân thành phố Trà Vinh đã truy tố là có căn cứ, đúng pháp luật.

Tại phiên tòa, vị đại diện Viện kiểm sát và những người tham gia tố tụng không bổ sung tài liệu, đồ vật và không đề nghị triệu tập thêm người tham gia tố tụng. Xác định tư cách người tham gia tố tụng theo quyết định đưa vụ án ra xét xử là đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

[3] Xét thấy bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Trà Vinh truy tố bị cáo Trần Quốc H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự là phù hợp với quy định của pháp luật, không oan, không sai.

[4] Xét tính chất của vụ án là rất nghiêm trọng, ma túy là chất gây nghiện rất độc hại, nó không chỉ làm ảnh hưởng đến sức khỏe, khả năng tham gia lao động, học tập, đến sự phát triển bình thường về trí tuệ của người sử dụng, mà nó còn làm cho nhiều gia đình phải đổ vỡ hạnh phúc, nhà tan, cửa nát. Ngoài ra nó còn là nguyên nhân làm phát sinh những căn bệnh thế kỷ và nhiều loại tội phạm khác nên rất nguy hiểm. Do đó, cần xử lý nghiêm đối với bị cáo là cần thiết.

Tuy nhiên, khi phạm tội bị cáo chưa tiền án, tiền sự; đã thật thà khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo có ông nội là ông Trần Hữu T được chính phủ tặng bằng khen trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại Điểm s khoản 1,2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Trần Chiếm T đã nhận lại được tài sản chiếc xe mô tô kiểu dáng Vespa màu trắng, biển số 59Y1-764.43 nên không có yêu cầu. Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết.

[5] Về vật chứng: 01 bao niêm phong mẫu vật hoàn trả số: 553/KLGĐ-PC09 ngày 14/11/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Long; 01 cái hộp giấy hình chữ nhật có chữ CHARLES&KEITH; 01 cân tiểu ly có chữ OPEN; 01 bật lửa màu vàng đã qua sử dụng bị hư hỏng; 01 bật lửa có chữ HAPHOCO đã qua sử dụng bị hư hỏng; 01 cây kéo màu trắng bằng kim loại đã qua sử dụng; 01 cây giũa bằng kim loại một đầu tròn, một đầu dẹp; 01 cây nỏ thủy tinh; 01 ống thủy tinh; 01 ống thủy tinh có màu xanh, vàng; 11 bịch nylon có viền màu xanh lá cây; 01 bịch nylon có viền màu đỏ; 19 bịch nylon có viền màu xanh dương; 01 tờ tiền 10.000 đồng được cuộn tròn; 01 điện thoại di động mobiistar B248i đã qua sử dụng; 01 điện thoại di động hiệu NOKIA màu đen, model: TA-1034 đã qua sử dụng, kèm theo sim số 0794952272; 01 hộp giấy có chữ NOKIA, Trà Vinh, Tuấn gửi: Hùng số ĐT: 0794952272 và 01 tờ giấy có chữ Kim Hoàng SG, ngày 12/11/2018 09:32 803041 Tuấn>Hùng ĐT người nhận: 0794952272 Hàng hóa: 1 Hộp K; 01 giấy chứng minh nhân dân mang tên Trần Quốc H. Cần tịch thu sung quỹ, tiêu hủy và trả lại cho bị cáo theo quy định của pháp luật.

[6] Về quyền kháng cáo: Bị cáo và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo Bản án theo quy định của pháp luật.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Trần Quốc H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Căn cứ: Điểm g khoản 2 Điều 249; Điểm s khoản 1,2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Trần Quốc H 05 năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 12/11/2018.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Trần Chiếm T không có yêu cầu. Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết.

Căn cứ: Điều 47 Bộ luật hình sự, khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu sung quỹ 01 tờ tiền 10.000 đồng được cuộn tròn; 01 điện thoại di động mobiistar B248i đã qua sử dụng; 01 điện thoại di động hiệu NOKIA màu đen, model: TA-1034 đã qua sử dụng, kèm theo sim số 0794952272. Tịch thu tiêu hủy 01 bao niêm phong mẫu vật hoàn trả số: 553/KLGĐ-PC09 ngày 14/11/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Long; 01 cái hộp giấy hình chữ nhật có chữ CHARLES&KEITH; 01 cân tiểu ly có chữ OPEN; 01 bật lữa màu vàng đã qua sử dụng bị hư hỏng; 01 bật lửa có chữ HAPHOCO đã qua sử dụng bị hư hỏng; 01 cây kéo màu trắng bằng kim loại đã qua sử dụng; 01 cây giũa bằng kim loại một đầu tròn, một đầu dẹp; 01 cây nỏ thủy tinh; 01 ống thủy tinh; 01 ống thủy tinh có màu xanh, vàng; 11 bịch nylon có viền màu xanh lá cây; 01 bịch nylon có viền màu đỏ; 19 bịch nylon có viền màu xanh dương; 01 hộp giấy có chữ NOKIA, Trà Vinh, T gửi: H số ĐT: 0794952272 và 01 tờ giấy có chữ Kim Hoàng SG, ngày 12/11/2018 09:32 803041 T > H ĐT người nhận: 0794952272 Hàng hóa: 1 Hộp K.

Trả lại cho bị cáo 01 giấy chứng minh nhân dân mang tên Trần Quốc H.

Căn cứ: Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Buộc bị cáo Trần Quốc H nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Án sơ thẩm xử công khai, báo cho bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

219
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 15/2019/HS-ST ngày 16/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:15/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Trà Vinh - Trà Vinh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về