Bản án 15/2019/HS-ST ngày 15/02/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TUYÊN QUANG, TỈNH TUYÊN QUANG

BẢN ÁN 15/2019/HS-ST NGÀY 15/02/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 15 tháng 02 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang mở phiên tòa công khai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 16/2019/TLST- HS ngày 31 tháng 01 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 13/2019/QĐXXST- HS ngày 01/02/2019, đối với bị cáo:

LÊ VĂN L, sinh ngày 10/5/1977, tại tỉnh Vĩnh Phúc.

ĐKHKTT: Thôn Y, xã Y, huyện Y, tỉnh Vĩnh Phúc; nơi ở hiện nay: Tổ 2, phường H, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn 3/12; giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; con ông Lê Văn T và bà Tạ Thị T (đều đã chết); có vợ là Tạ Thị M và có 02 con, lớn sinh năm 2004, nhỏ sinh năm 2014; tiền án: Ngày 05/5/2017 bị Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang xử phạt 01 năm 03 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 09/02/2018 (Bản án số 51/2017/HSST); tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 31/10/2018, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Tuyên Quang. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 16 giờ ngày 31/10/2018, bị cáo Lê Văn L (có 01 tiền án về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy) đi bộ từ nơi ở đến khu vực đầu đường cao tốc gần vòng xuyến, thuộc phường Tân Quang, thành phố Tuyên Quang, mục đích tìm mua heroine để sử dụng. Bị cáo khai gặp Lê Hùng C, sinh năm 1981, trú tại tổ 1, phường M, thành phố T hỏi và mua được của C 01 gói heroine, bọc ngoài bằng lớp giấy bạc màu trắng, bên trong bọc lớp giấy bạc màu đen với số tiền 100.000 đồng. Bị cáo cất giấy gói heroine trong người, đi bộ về nhà trọ, khi đến khu vực tổ 27, phường Tân Quang, thành phố Tuyên Quang thì bị Tổ công tác Công an phường Tân Quang phát hiện, bắt quả tang hồi 16 giờ 50 phút cùng ngày. Bị cáo tự giác giao nộp 01 gói heroine.

Tại Kêt luân giam đinh sô 479/GĐKTHS ngay 02/11/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tinh Tuyên Quang, kêt luân: Số chất bột vón cục màu trắng ngà thu giữ của Lê Văn L gửi giám định là chất ma túy, loại heroine; khối lượng 0,044g (Không phẩy không bốn bốn gam).

Tiến hành xét nghiệm tìm chất ma túy đối với bị cáo, kết quả: (+) dương tính có chất ma túy trong cơ thể. Bị cáo khai nhận ngày 30/10/2018 đã sử dụng ma túy mua của Lê Hùng C ở khu vực đầu đường cao tốc, thuộc phường Tân Qang, thành phố Tuyên Quang.

Tại bản Cáo trạng số 19/CT-VKSTP ngày 30 tháng 01 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tuyên Quang đã truy tố bị cáo Lê Văn L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm a khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Kết thúc phần xét hỏi, Kiểm sát viên giữ quyền công tố vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Lê Văn L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Lê Văn L từ 01 năm đến 01 năm 03 tháng tù. Hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam. Ngoài ra Đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo; tịch thu tiêu hủy số heroine đã thu giữ của bị cáo, trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động nhưng tạm giữ để đảm bảo việc thi hành án, buộc bị cáo phải chịu án phí và tuyên quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Tại phiên toà bị cáo Lê Văn L tiếp tục khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, nội dung khai báo của bị cáo phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra, không có tình tiết gì mới; bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận giám định số 479/GĐKTHS ngày 02/11/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Tuyên Quang; bị cáo nhất trí với luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tuyên Quang, không có ý kiến tranh luận và cũng không có ý kiến gì để bào chữa cho hành vi phạm tội của mình.

Kết thúc phần tranh luận, bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, bị cáo ăn năn, hối cải về hành vi phạm tội, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Tuyên Quang, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tuyên Quang, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự; tại phiên tòa, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn khi thực hành quyền công tố. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa, bị cáo L tiếp tục khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra. Hành vi phạm tội của bị cáo còn được chứng minh bằng: Biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ; Kết luận giám định cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do vậy Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hồi 16 giờ 50 phút ngày 31/10/2018, tại tổ 27, phường Tân Quang, thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang. Bị cáo Lê Văn L đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,044g (Không phẩy không bốn bốn gam) heroine, mục đích để sử dụng.

Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, cố ý thực hiện hành vi tàng trữ trái phép Heroine mục đích để sử dụng, tuy khối lượng chất ma tuý dưới mức định lượng, nhưng bị cáo đã có 01 tiền án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý. Do vậy Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tuyên Quang truy tố bị cáo về tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng quy định pháp luật.

[3] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[5] Về hình phạt: Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma tuý, gây mất trật tự trị an tại địa phương, làm ảnh hưởng đến phong trào đấu tranh, phòng chống tội phạm và bài trừ tệ nạn ma tuý trên địa bàn thành phố Tuyên Quang, do vậy cần buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tại cơ sở giam giữ trong một thời gian nhất định nhằm cải tạo giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung.

Căn cứ tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, khối lượng Heroine mà bị cáo tàng trữ cũng như nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự áp dụng đối với bị cáo, Hội đồng xét xử thấy mức án mà Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp, có căn cứ.

[6] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là người lao động tự do, thu nhập không ổn định; hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý của bị cáo nhằm mục đích sử dụng cho bản thân, không có mục đích vụ lợi. Do đó, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

[7] Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của bị cáo L, Công an thành phố Tuyên Quang đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 360 ngày 19/11/2018 phạt tiền 600.000 đồng.

Đối với Lê Hùng C, theo bị cáo khai là người đã bán heroine cho bị cáo. Cơ quan điều tra đã áp dụng các biện pháp điều tra, nhưng không có căn cứ chứng minh được C là người đã bán heroine cho bị cáo, nên không có căn cứ để xem xét, giải quyết.

[8] Về vật chứng: Đối với 01 phong bì niêm phong (bên trong có chứa heroine), là vật chứng của vụ án thuộc loại Nhà nước cấm lưu hành, không có giá trị sử dụng, cần tịch thu tiêu hủy. Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, bên trong có gắn 01 sim điện thoại, không liên quan đến hành vi phạm tội, nên trả lại cho bị cáo nhưng tạm giữ lại để đảm bảo việc thi hành án.

[9] Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

[10] Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào: Điểm a khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự;

Tuyên bố: Bị cáo Lê Văn L phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý".

Xử phạt: Bị cáo Lê Văn L 01 (Một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam 31/10/2018.

- Về vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu huỷ 01 (Một) phong bì niêm phong còn nguyên vẹn, bên ngoài mặt trước phong bì có ghi “ tang vật vụ Lê Văn L ngày 31/10/2018”. Mặt sau phong bì có chữ ký của Lê Văn L, ông Trần Quốc Khánh – Cán bộ Phòng KTHS Công an tỉnh Tuyên Quang và có đóng 05 (Năm) hình dấu đỏ của Phòng

Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang, bên trong chứa 0,024g Heroine.

Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, màu xanh, bàn phím màu đen có số IMEI 351973/05/335370/5, máy cũ đã qua sử dụng, bên trong có 01 sim điện thoại, trên mặt sim có số 89840.48000.00645.5964, nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an thành phố Tuyên Quang và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Tuyên Quang ngày 14/02/2019.

- Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Bị cáo Lê Văn L phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

- Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

207
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 15/2019/HS-ST ngày 15/02/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:15/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Tuyên Quang - Tuyên Quang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/02/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về