Bản án 15/2019/HNGĐ-ST ngày 25/06/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ UÔNG BÍ - TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 15/2019/HNGĐ-ST NGÀY 25/06/2019 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 25/6/2019, tại phòng xử án Tòa án nhân dân Thành phố Uông Bí xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 36/2019/TLST-HNGĐ ngày 22/03/2019 về việc: "Tranh chấp về hôn nhân và gia đình" theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 17/2019/QĐXXST- HNGĐ ngày 22/5/2019 giữa:

1. Nguyên đơn: Chị Đặng Thị L, sinh năm: 1987 Địa chỉ: Tổ 27, Khu T, phường Y, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, vắng mặt tại phiên toà, có đơn xin xét xử vắng mặt.

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Xuân Q, sinh năm 1980 Địa chỉ: Tổ 27, Khu T, phường Y, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, vắng mặt tại phiên toà.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện xin ly hôn ngày 11/03/2019, lời khai tại các buổi làm việc tại Tòa án, chị Đặng Thị L trình bày: Tôi ( Đặng Thị L) và anh Nguyễn Xuân Q kết hôn năm 2006, có đăng ký kết hôn tại UBND phường Y, thị xã Uông Bí (Nay là TP Uông Bí), tỉnh Quảng Ninh. Sau khi kết hôn giữa hai vợ chồng hay xảy ra mâu thuẫn trong cuộc sống. Nguyên nhân là do anh Q không quan tâm, chăm sóc gia đình, thường xuyên chơi cờ bạc, lô đề, vay nợ rất nhiều người. Khi anh Q về nhà lại uống rượu rồi chửi bới, đánh đập, vợ con. Dù bố, mẹ hai bên gia đình đã nói chuyện, khuyên giải nhiều lần nhưng hai vợ chồng vẫn không thể tìm được tiếng nói chung.

Càng ngày cuộc sống chung càng căng thẳng, tình cảm vợ chồng phai nhạt dần. Tôi (L) và anh Q đã sống ly thân được hơn 03 năm nay. Từ thời điểm đó đến giờ anh Quyết bỏ đi làm ở nơi khác, bỏ mặc các con cả về tình cảm và kinh tế, chỉ thỉnh thoảng mới về nhà. Tôi (L) nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn trầm trọng không thể hàn gắn được nên đề nghị Toà án giải quyết cho tôi ly hôn với anh Nguyễn Xuân Q.

Về con chung: Tôi (L) và anh Q có hai con chung là Nguyễn Thị Cẩm L, sinh ngày 19/10/2007 và Nguyễn Xuân Đ, sinh ngày 01/11/2012. Quan điểm của chị tôi (L) xin được nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu anh Q đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Tôi (L) và anh Q tự thỏa thuận, không đề nghị Tòa án xem xét giải quyết về tài sản.

Sau khi thụ lý vụ án Toà án nhân dân TP Uông Bí đã triệu tập anh Q nhiều lần nhưng anh Q không đến Toà án để giải quyết vụ án. Việc anh Q không đến Tòa án để giải quyết vụ án thể hiện thái độ không hợp tác với Tòa án nên căn cứ Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án giải quyết vụ án theo thủ tục chung.

Tại biên bản xác minh ngày 14/5/2019 tại khu dân cư nơi anh Q chị L sinh sống có xác nhận của UBND phường Y thành phố Uông Bí cho biết: Cuộc sống chung giữa chị Chị L và anh Q không có hạnh phúc thường xuyên xẩy ra mâu thuẫn một phần do tính cách vợ chồng không hòa hợp và phần chủ yếu là do anh Q sống không có trách nhiệm với gia đình, không tu chí làm ăn, chơi bời lô đề, dẫn tới nợ nần. Phụ nữ khu phố và gia đình đã động viên khuyên giải nhiều lần nhưng không cải thiện được tình hình. Điều này thể hiện mâu thuẫn vợ chồng giữa anh anh Q và chị L đã trầm trọng, đời sống chung vợ chồng không tồn tại, mục đích hôn nhân không đạt được.

Tại biên bản xác minh của người làm chứng là bà Vũ Thị X(Là mẹ đẻ chị Đặng Thị L) có lời khai thể hiện: Sau khi kết hôn vợ chồng anh Q và chị L chung sống cùng với gia đình bà, do anh Q không có người thân họ hàng ở xung quanh nên tất cả các văn bản tố tụng của Tòa án gửi anh Q bà X đều nhận thay cho anh Q, và thông báo đầy đủ với anh Q nhưng không hiểu vì lý do gì anh Q không đến Tòa án theo đúng thời gian và địa điểm như thông báo của Tòa án.

Ngày 7/6/219,Toà án nhân dân TP. Uông Bí đã mở phiên tòa xét xử sơ thẩm ly hôn đối với chị L và anh Q. Mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng anh Q vắng mặt. Toà án đã hoãn phiên toà vì vắng mặt bị đơn. Tại phiên tòa ngày 25/6/2019 anh Q vẫn vắng mặt không có lý do.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân TP Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh phát biểu ý kiến:

- Về thủ tục tố tụng : Tòa án đã thực hiện đúng theo qui định của Bộ luật tố tụng dân sự từ khi thụ lý đến khi xét xử .

- Ý kiến về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, xử cho chị Đặng Thị L được ly hôn anh Nguyễn Xuân Q; Giao con chung Nguyễn Thị Cẩm L và Nguyễn Xuân Đ cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng; anh Q không phải đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung: Các đương sự không yêu cầu nên không xem xét giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, sau khi nghe ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng : Việc thụ lý và giải quyết vụ án dân sự về tranh chấp hôn nhân và gia đình giữa các đương sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh theo qui định tại khoản 1 điều 28, Điểm a khoản 1 điều 25, Điểm a khoản 1 điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn anh Nguyễn Xuân Q đã được Toà án tống đạt các văn bản tố tụng theo đúng thủ tục tố tụng nhưng anh Qvẫn vắng mặt tại phiên tòa không có lý do nên căn cứ Điểm b Khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng Dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn anh Nguyễn Xuân Q

[2] Về nội dung:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Đặng Thị L và anh Nguyễn Xuân Q đủ điều kiện kết hôn và kết hôn với nhau do tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND phường Y, thị xã Uông Bí (Nay là TP Uông Bí), tỉnh Quảng Ninh năm 2006, đây là hôn nhân hợp pháp nên được pháp luật bảo vệ.

Chị L và anh Q chung sống được 1 thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình không hợp, bất đồng về quan điểm sống. Anh Nguyễn Xuân Q sống không có trách nhiệm với gia đình vợ con, chơi bời, lô đề, cờ bạc dẫn tới vay nợ rất nhiều người, khi chị L góp ý anh Q không hài lòng, nên vợ chồng xô sát, đánh cãi nhau, mặc dù đã được gia đình cùng khu phố nơi anh Q chị L sinh sống hòa giải nhưng vẫn không có kết quả. .

Trong quá trình giải quyết Tòa án đã nhiều lần triệu tập các đương sự lên để tiền hành hòa giải tạo cơ hội hàn gắn tình cảm vợ chồng cùng nhau gỡ bỏ mâu thuẫn trong cuộc sống. Mặc dù anh Q biết chị L có đơn ly hôn, Tòa án báo gọi nhưng anh Q vẫn vắng mặt không lý do. Như vậy, anh Q đã cố tình không hợp tác. Điều này chứng tỏ anh Q cũng không tha thiết hàn gắn tình cảm vợ chồng.

Vì vậy, HĐXX chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của chị L là có cơ sở, phù hợp với qui định tại khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình .

[2.2] Về con chung: Chị Đặng Thị L và anh Nguyễn Xuân Q có hai con chung là Nguyễn Thị Cẩm L, sinh ngày 19/10/2007 và Nguyễn Xuân Đ, sinh ngày 01/11/2012. Chị Đặng Thị L có quan điểm được trực tiếp nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu anh Q cấp dưỡng nuôi con. Anh Nguyễn Xuân Q vắng mặt nên không có quan điểm về việc nuôi con chung khi ly hôn. Đến thời điểm Tòa án giải quyết. Cháu Nguyễn Thị Cẩm L đã trên 7 tuổi nên theo quy định tại khoản 3 Điều 208 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 Tòa án đã lấy lời khai của cháu Nguyễn Thị Cẩm L. Tại biên bản lấy lời khai ngày 06/5/2019 cháu Nguyễn Thị Cẩm L thể hiện quan điểm nếu bố mẹ ly hôn, cháu muốn được ở với mẹ vì mẹ cháu chăm sóc cháu tốt hơn. Hiện tại chị L có công việc và thu nhập ổn định, cháu Nguyễn Thị Cẩm L và cháu Nguyễn Xuân Đ vẫn đang ở cùng chị và do chị L trực tiếp nuôi dưỡng, các cháu được nuôi dạy và phát triển tốt. Do vậy, cần giao con chung cho chị L tiếp tục nuôi dưỡng.

Chị Đặng Thị L có quan điểm không yêu cầu anh Nguyễn Xuân Q phải đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung. Xét thấy quan điểm của chị L là tự nguyện, không trái quy định của pháp luật nên tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng tiền nuôi con chung của anh Q, khi nào chị L có yêu cầu sẽ xem xét giải quyết bằng vụ án dân sự khác.

 [2.3] Về tài sản chung: Chị L không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết về tài sản; anh Q vắng mặt, không có quan điểm về tài sản. Vì vậy, Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết về vấn đề tài sản.

[2.4] Về án phí: Chị Đặng Thị L phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm.

[2.5] Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo theo qui định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; Điều 227; điểm c khoản 2 Điều 266; Điều 271, Điều 273, Điều 278, Điều 280 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 51,56,81,82,83,84 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ quốc hội ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn và việc nuôi dưỡng con chung khi ly hôn của Chị Đặng Thị L đối với anh Nguyễn Xuân Q.

Tuyên xử :

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Đặng Thị L được ly hôn với anh Nguyễn Xuân Q.

2.Về con chung: Giao con chung Nguyễn Thị Cẩm L, sinh ngày 19/10/2007 và Nguyễn Xuân Đ, sinh ngày 01/11/2012 cho chị Đặng Thị L nuôi dưỡng.

Anh Nguyễn Xuân Q không phải đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung. Anh Q không trực tiếp nuôi dưỡng con chung nhưng cũng có quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục và nuôi dưỡng con chung, không ai được cản trở. Đồng thời anh Q còn có quyền yêu cầu xin thay đổi người trực tiếp nuôi con nếu chị L không nuôi dưỡng được con chung.

3.Về án phí: Chị Đặng Thị L phải nộp án phí tranh chấp hôn nhân và gia đình sơ thẩm là 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số 0000772 ngày 22/3/2019 tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Uông Bí. Chị Đặng Thị L đã nộp đủ tiền án phí.

Án xử công khai sơ thẩm vắng mặt nguyên đơn và bị đơn, Toà án báo cho nguyên đơn và bị đơn có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

193
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 15/2019/HNGĐ-ST ngày 25/06/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:15/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Uông Bí - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 25/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về