Bản án 15/2019/HNGĐ-ST ngày 19/04/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN N - TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 15/2019/HNGĐ-ST NGÀY 19/04/2019 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 19/04/2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Ninh Bình mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 251/2018/TLST-HNGĐ ngày 05 tháng 12 năm 2018 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 13/2019/QĐXX-ST ngày 12/3/2019 và quyết định hoãn phiên tòa số 13 ngày 2/4/2019 về việc ly hôn giữa các dương sự:

Nguyên đơn: Đinh Thị L, sinh năm 1995 (có mặt). HKTT: Thôn N2, xã C, huyện N, tỉnh Ninh Bình. Địa chỉ: Bản C, xã K, huyện N, tỉnh Ninh Bình. Nghề nghiệp: Công nhân.

Bị đơn: Anh Đinh Hồng N, sinh năm 1992 (vắng mặt). Địa chỉ: Thôn N2, xã C, huyện N, tỉnh Ninh Bình. Nghề nghiệp: Lao động tự do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 03/12/2018, bản tự khai ngày 17/12/2018, các biên bản hòa giải ngày 17/12/2018, 12/3/2019 và tại phiên tòa chị L trình bày:

Về hôn nhân: Chị kết hôn với anh Đinh Hồng N vào ngày 12/6/2013 có đăng ký tại UBND xã C là hôn nhân tự nguyện. Sau khi cưới vợ chồng chị sống chung với bố mẹ đẻ anh N tại thôn N2, xã C, huyện N, tỉnh Ninh Bình được khoảng 1 tuần thì ra Hải Phòng làm ăn. Sau đó chị mang thai thì vợ chồng chị về quê để sinh con, sau khi sinh con thì anh N tỏ ra lạnh nhạt không quan tâm đến vợ con, anh N thường xuyên đi uống rượu cả đêm với bạn bè làm chị rất buồn, còn mẹ chồng luôn trách mắng chị. Sau khi sinh con được 01 tháng, chị L xin phép bên nội cho về bên ngoại chơi, nhưng mẹ chồng chị không đồng ý, sau đó anh N về đánh chị, chị đã mang con bỏ về nhà mẹ đẻ để ở, cùng từ đó đến nay chị và anh N sống ly thân, khi con chị được 8 tháng thì chị phải gửi con ở nhà mẹ đẻ để đi làm công nhân ở Hải Phòng để có tiền lo cho cuộc sống của 2 mẹ con, sau đó anh N cũng ra Hải Phòng để làm ăn, vợ chồng tôi đón con ra để chăm sóc cháu, nhưng chị L thì bận đi làm, chồng tôi tuy cũng đi làm nhưng anh N không hề có trách nhiệm gì với vợ con, anh còn thường xuyên tụ tập bạn bè uống rượu không đưa đón con đi học, nên chị phải mang con về gửi ông bà ngoại, còn chị đi làm công nhân ở thành phố Ninh Bình, anh N ở nhà. Chị L đã nhiều lần khuyên anh N, anh có hứa sẽ sửa chữa, nhưng vẫn không thay đổi thường xuyên tụ tập bạn bè uống rượu không có trách nhiệm gì với vợ con, một mình chị L phải đi làm kiếm tiền lo cho cuộc sống của hai mẹ con. Nay chị L thấy hạnh phúc gia đình không đạt được, chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho tôi được ly hôn với anh N để ổn định cuộc sống.

Về con chung và cấp dưỡng nuôi con chung sau khi ly hôn: Vợ chồng chị có 01 con chung là cháu Đinh Hà M, sinh ngày 23/8/2013, hiện nay đang ở với chị L và ông bà ngoại.

Nếu ly hôn, chị L xin được nuôi con chung và không yêu cầu anh N phải cấp dưỡng nuôi con chung vì chị làm công nhân thu nhập bình quân một tháng khoảng từ 5 triệu đến 6 triệu, đủ khả năng nuôi con.

Về tài sản chung, công nợ chung: Không có, chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ý kiến Anh N: Tại lời khai ngày 17/12/2018 và các biên bản hòa giải ngày 17/12/2018, 12/3/2019. Anh N xác định lời khai của chị L về diễn biến hôn nhân và gia đình giữa anh và chị L là đúng sự thật. Riêng về nguyên nhân mâu thuẫn gia đình thì là do anh nghi vợ anh có quan hệ tình cảm với người khác nên anh chán nản và một số nguyên nhân khác nữa. Nhưng nay anh đã suy nghĩ lại, anh cảm thấy hối hận vì đã có lỗi với vợ con nên đã gần 2 năm nay anh không uống rượu mà chịu khó lao động để kiếm tiền lo cho vợ con, anh đề nghị Tòa án hòa giải để vợ chồng đoàn tụ, cùng nhau chăm sóc nuôi dạy con cái, anh không muốn con anh phải thiếu đi tình cảm của bố hoặc mẹ.

Về con chung và cấp dưỡng nuôi con chung: Anh xác định đúng như chị L trình bày, nếu chị L kiên quyết xin ly hôn thì anh xin được nuôi con chung và không yêu cầu chị L phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng anh, vì anh ngoài làm ruộng, anh còn đi xây thu nhập bình quân khoảng 5-6 triệu đồng một tháng, đủ khả năng nuôi con chung.

Về tài sản chung, công nợ chung: Anh N xác định như chị L trình bày anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa: Đại diện VKS phát biểu quan điểm về việc tuân theo Pháp luật của Thẩm phán, Thư ký phiên tòa thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án, chị L đã thực hiện đúng các quy định tại các Điều 70,71, 234 BLTTDS; Anh N thực hiện không đầy đủ các quy định tại các Điều 70,72, 234; anh vắng nặt tại phiên tòa.

Về đường lối đề nghị như sau, căn cứ: Các Điều 5,147, 227, 228, 266, 271, và khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Các Điều 56,58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Đề nghị Hội đồng xét xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Đinh Thị L.

Xử ly hôn giữa chị Đinh Thị L và bị đơn: Anh Đinh Hồng N.

2. Về con chung: Giao con chung là cháu Đinh Hà M, sinh ngày 23/8/2013 cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng và chăm sóc đến khi cháu đủ 18 tuổi. Anh N không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

3. Về tài sản chung, về công nợ chung: Không giải quyết về tài sản chung và công nợ chung.

4. Án phí ly hôn sơ thẩm: Chị L phải nộp 300.000 đồng theo quy định của Pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

1. Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: Đây là tranh chấp về Hôn nhân và gia đình về việc yêu cầu xin ly hôn và nuôi con chung của chị Đinh Thị L và anh Đinh Hồng N. Tranh chấp trên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Ninh Bình.

2. Về thủ tục tố tụng: Đối với các đương sự, từ khi thụ lý đơn khởi kiện của chị L, Tòa án nhân dân huyện N đã gửi thông báo thụ lý vụ án và các văn bản tố tụng cho các đương sự. Trong quá trình giải quyết vụ án, chị L chấp hành đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật, còn anh N không chấp hành đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật. Đến ngày 12/3/2019 Tòa án nhân dân huyện N đã quyết định đưa vụ án ra xét xử.

3. Về hôn nhân: Chị Đinh Thị L kết hôn với anh Đinh Hồng N vào ngày 12/6/2013 có đăng ký tại UBND xã C là hôn nhân hợp pháp. Từ lời khai của các đương sự thì thời gian sống hạnh phúc của vợ chồng chị L chỉ được một thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn. Về nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng tuy chị L và anh N trình bày khác nhau, nhưng trên thực tế sau khi chị L sinh con ngày 23/8/2013 được 01 tháng chị L đã mang con bỏ về nhà mẹ đẻ ở xã K để ở và sống ly thân với anh N từ đó đến nay. Sau đó vợ chồng có một thời gian ngắn đoàn tụ, sau đó lại tiếp tục sống ly thân.

Tòa án nhân dân huyện N đã tiến hành hòa giải nhưng chị L vẫn kiên quyết xin ly hôn với anh N. Từ yêu cầu của chị L cũng như đời sống tình cảm của chị L và anh N thì hạnh phúc gia đình, tình cảm vợ chồng thực sự đã mất. Xét khả năng đoàn tụ của hai người thực sự không còn, đã có đủ cơ sở pháp lý để chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị chi L. Xử ly hôn giữa chị chị L và anh N là phù hợp với thực tế và quy định của Pháp luật để hai người sớm ổn định cuộc sống (áp dụng điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014).

4. Về con chung và cấp dưỡng nuôi con chung: Xét thực tế con chung của chị L và anh N là cháu Đinh Hà M, sinh ngày 23/8/2013 ở với chị L từ khi sinh ra đến nay cháu Đinh Hà M vẫn ổn định về cuộc sống nên cần giao cháu cho chị L tiếp tục nuôi dưỡng và chăm sóc cho đến khi đủ 18 tuổi. Về cấp dưỡng nuôi con, xét điều kiện thực tế cuộc sống và thu nhập của chị L chị có đủ khả năng chăm sóc và nuôi dưỡng con chung hơn anh N. Vì vậy cần chấp nhận sự tự nguyện của chị L. Anh N không phải cấp dưỡng nuôi con.

5. Về tài sản chung, về công nợ chung: Từ lời khai của chị L và anh N cũng như yêu cầu của hai người và kết quả xác minh thì Hội đồng xét xử không phải giải quyết về hai người không có tài sản chung và công nợ chung.

6. Về án phí ly hôn sơ thẩm: Chị L phải nộp theo quy định của Pháp luật. Số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí chị L đã nộp được chuyển sang án phí.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng: Các Điều 56, 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Các Điều 5, 147, 227, 228, 266, 271, 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 27 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu miễn giảm thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Đinh Thị L.

1. Xử ly hôn giữa chị Đinh Thị L và anh Đinh Hồng N.

2. Về con chung: Giao con chung là cháu Đinh Hà M, sinh ngày 23/8/2013 cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng và chăm sóc đến khi cháu đủ 18 tuổi. Anh N không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Sau khi ly hôn chị L cùng các thành viên trong gia đình không được cản trở anh N trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con. Trường hợp anh N lạm dụng việc việc thăm nom con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì chị L có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của anh N.

3. Về tài sản chung, về công nợ chung: Không giải quyết về tài sản chung và công nợ chung.

4. Án phí ly hôn sơ thẩm: Chị L phải nộp 300.000đ, chị đã nộp 300.000đ tạm ứng án phí tại biên lai thu số: 0000974 ngày 05/12/2018 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện N nay chuyển sang án phí.

Án xử công khai sơ thẩm Chị L được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh N được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

181
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 15/2019/HNGĐ-ST ngày 19/04/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:15/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nho Quan - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 19/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về