Bản án 15/2017/HSST ngày 18/09/2017 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẢO LẠC, TỈNH CAO BẰNG

BẢN ÁN 15/2017/HSST NGÀY 18/09/2017 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 18 tháng 9 năm 2017 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bảo Lạc, tỉnh Cao Bằng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 15/2017/HSST ngày 17 tháng 8 năm 2017

Đối với bị cáo: T T M, sinh ngày 15/02/1996

Nơi cư trú: xóm LQ, xã ĐP, huyện B, tỉnh C

Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: 6/12; Dân tộc: Dao

Con ông: T C C, sinh năm 1979 và bà T M P, sinh năm 1972, có vợ T M N, sinh năm 1996 và con T M K, sinh năm 2015 cùng cư trú tại: xóm LQ, xã ĐP, huyện B, tỉnh C;

Tiền án: Không; Tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, sau đó là tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Bảo Lạc, tỉnh Cao Bằng từ ngày 03/6/2017 đến nay (Bị cáo có mặt tại phiên tòa).

* Người làm chứng:

- Anh L V C, sinh ngày 02/12/2000, nơi cư trú: xóm BB, xã ĐP, huyện B, tỉnh C (Vắng mặt tại phiên tòa);

- Anh M V C, sinh ngày 02/3/1981, nơi công tác: Nhà máy thủy điện NH, xã HG, huyện B, tỉnh C (Vắng mặt tại phiên tòa);

- Anh V V P, sinh năm 1976, nơi cư trú: xóm NĐ, xã HĐ, huyện B, tỉnh C (Vắng mặt tại phiên tòa).

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị T M N, sinh ngày 09/4/1996, nơi cư trú: xóm LQ, xã ĐP, huyện B, tỉnh C (Có mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào hồi 15 giờ ngày 03/6/2017 tổ công tác Công an huyện Bảo Lạc, tỉnh Cao Bằng đang làm nhiệm vụ tại xóm Phiêng Chầu 2, xã Đình Phùng, huyện Bảo Lạc, tỉnh Cao Bằng phát hiện T T M cư trú tại xóm LQ, xã ĐP, huyện B, tỉnh C điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 12F5 - 3321 có biểu hiện nghi vấn. Tổ công tác đã yêu cầu kiểm tra hành chính đối với M. Qua kiểm tra phát hiện bên trong túi áo M đang mặc có 01 (một) lọ nhựa màu trắng, bên trong lọ nhựa có 07 (bảy) gói giấy nhỏ bên trong các gói giấy đều có chứa chất bột màu trắng nghi là hêrôin. Theo lời khai của M 07 (bảy) gói chất bột màu trắng là hêrôin M mua với một người đàn ông tên H, không quen biết, không biết họ và địa chỉ cụ thể ở đâu với số tiền 500.000,đ (Năm trăm nghìn đồng) tại thị trấn TT, huyện NB, tỉnh C để bán lại kiếm lời. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản và thu giữ tang vật theo quy định của pháp luật. Ngoài ra tổ công tác còn thu giữ của M những tài sản sau: 241.000,đ (Hai trăm bốn mươi mốt nghìn đồng); 01 (một) điện thoại di động, mặt trước màu trắng, mặt sau màu vàng có chữ IphoneS, đã qua sử dụng; 01 (một) xe máy Waveα, màu xanh, biển kiểm soát 12F5 - 3321, số máy CPI1152FMH003983, số khung EPCH00A1D003983, xe đã qua sử dụng; 01 (một) giấy chứng nhận đăng ký mô tô xe máy mang tên H T B; 01 (một) chứng minh nhân dân mang tên T T M.

Cùng ngày 03/6/2017 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bảo Lạc, tỉnh Cao Bằng tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của T T M tại xóm LQ, xã ĐP, huyện B, tỉnh C. Qua khám xét không thu giữ đồ vật, tài liệu gì liên quan đến vụ án.

Ngày 04/6/2017 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Bảo Lạc, tỉnh Cao Bằng tiến hành mở niêm phong và cân xác định trọng lượng tang vật, qua cân điện tử số tang vật thu được của M có tổng trọng lượng 0,15gam (không phẩy mười năm gam). Đồng thời, ra quyết định trưng cầu giám định về chất ma túy số 08 ngày 08/6/2017 gửi phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Cao Bằng trưng cầu giám định chất bột màu trắng. Tại bản kết luận giám định số: 108/GĐMT ngày 30/6/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Cao Bằng kết luận: mẫu chất bột màu trắng gửi giám định là chất ma túy, loại ma túy: hêrôin (hêrôin là chất ma túy nằm trong danh mục I, STT:20, Nghị định số 82/2013/NĐ-CP, ngày 19/07/2013 của Chính phủ (không hoàn trả lại đối tượng giám định).

Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo M trình bày M mua ma túy để sử dụng cho bản thân và bán lại cho những người nghiện khác để kiếm lời. Trong tháng 5/2017 M cùng S D L cùng cư trú tại xóm LQ, xã ĐP, huyện B, tỉnh C ra thị trấn TT, huyện NB, tỉnh C mua ma túy với người đàn ông tên H, không rõ họ và địa chỉ. M mua ma túy với số tiền 1.000.000,đ (Một triệu đồng), L mua với số tiền 2.000.000,đ (Hai triệu đồng) L mua với mục đích làm gì M không biết. Sau khi mua được ma túy M chia thành từng gói nhỏ với mục đích sử dụng cho bản thân và bán lại cho nhũng người nghiện khác để kiếm lời. M bán ma túy cho L V C, nơi cư trú: xóm BB, xã ĐP, huyện B, tỉnh C 01 (một) gói nhỏ với giá 100.000,đ (Một trăm nghìn đồng) địa điểm mua bán tại xóm LQ, xã ĐP, huyện B, tỉnh C.

Ngày 03/6/2017 M một mình đi xe máy có biển kiểm soát 12F5 - 3321 ra thị trấn TT, huyện NB, tỉnh C tiếp tục mua ma túy với người đàn ông tên H, M liên lạc bằng điện thoại và được H hẹn địa điểm tại đoạn đường gần tượng đài Bác Hồ thuộc thị trấn TT, huyện NB, tỉnh C để trao đổi mua bán ma túy. M mua ma túy với giá 500.000,đ (Năm trăm nghìn đồng). Sau đó M chia ma túy đã mua thành nhiều gói nhỏ để sử dụng cho bản thân và bán lại cho những người nghiện khác để kiếm lời. Cụ thể: chiều ngày 03/6/2017 M bán ma túy cho M V C, nơi công tác: Nhà máy thủy điện NH, xã HG, huyện B, tỉnh C 01 (một) gói nhỏ với giá 100.000,đ (Một trăm nghìn đồng), M V C liên lạc với M bằng điện thoại di động và hẹn địa điểm mua bán tại xóm BN, xã HG, huyện B, tỉnh C. Cũng trong chiều ngày 03/6/2017 M bán ma túy cho V V P, nơi cư trú: xóm NĐ, xã HĐ, huyện B, tỉnh C 01 (một) gói nhỏ với giá 100.000,đ (Một trăm nghìn đồng) địa điểm bán tại xóm BN, xã HG, huyện B, tỉnh C.

Đối với đối tượng đã bán ma túy cho M tên là H, không rõ họ, địa chỉ cụ thể nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bảo Lạc, tỉnh Cao Bằng không đủ căn cứ để truy xét.

Đối với đối tượng S D L cư trú tại xóm LQ, xã ĐP, huyện B, tỉnh C là người cùng đi mua ma túy với M. Trong quá trình điều tra xác minh đối tượng S D L là người nghiện ma túy hiện nay không có mặt tại địa phương, đi làm thuê ở đâu không rõ nên không thể tiến hành lấy lời khai của L. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bảo Lạc, tỉnh Cao Bằng tách hồ sơ để điều tra đối với hành vi của L.

Tại bản Cáo trạng số: 14/CT-VKS ngày 16/8/2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bảo Lạc, tỉnh Cao Bằng đã truy tố bị cáo T T M về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 194 Bộ luật hình sự;

Tại phiên tòa Kiểm sát viên giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Triệu Tòn M theo như bản Cáo trạng đã nêu. Đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: điểm b khoản 2 Điều 194, điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Triệu Tòn Mản với khung hình phạt từ 07 (bảy) đến 08 (tám) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét xử lý theo quy định.

Trong quá trình giải quyết vụ án những người làm chứng anh L V C, anh M V C, anh V V P trình bày: Các anh là người nghiện ma túy, mua ma túy với M để sử dụng cho bản thân nhằm thỏa mãn cơn nghiện, trùng khớp với lời khai của bị cáo M; Theo Nghị quyết số 33/NQ-QH12, ngày 19/06/2009 về việc thi hành luật sửa đổi một số điều của Bộ luật hình sự “Không xử lý hình sự đối với người sử dụng ma túy”.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan chị T M N trình bày: Chị là vợ của T T M, chị không biết việc M sử dụng và mua bán ma túy. Xe máy có biển kiểm soát 12F5- 3321 là do hai vợ chồng đi làm thuê có tiền, chị đưa tiền cho anh M ra thành phố Cao Bằng mua lại xe cũ. Ngày 03/6/2017 anh M có lấy xe máy đi chở có cho trâu bò rồi sau đó lấy xe máy đi đâu làm gì thì chị không biết. Hiện nay, xe máy đang bị tạm giữ, do chồng chị đem đi mua bán ma túy chị không có ý kiến và yêu cầu gì.

Bị cáo T T M nhận thấy hành vi của mình là sai, là vi phạm pháp luật xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Bị cáo T T M thừa nhận bản Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố là đúng. Hội đồng xét xử xét thấy lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, lời khai của người làm chứng và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ.

Khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo là người đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự đối với mọi hành vi do mình gây ra. Bị cáo thực hiện hành vi với lỗi cố ý trực tiếp. Trong tháng 5/2017 và tháng 6/2017 bị cáo đã hai lần trực tiếp đi mua ma túy để sử dụng cho mục đích cá nhân và bán lại cho những người nghiện khác để kiếm lời. Cụ thể, bị cáo đã bán ma túy cho Anh L V C, anh M V C, anh V V P. Hành vi của bị cáo xâm hại trực tiếp đến những quy định của Nhà nước về quản lý các chất ma túy.

Theo quy định tại Điều 194 Bộ luật Hình sự:

“1. Người nào tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:

a) ...

b) Phạm tội nhiều lần;

………………….”.

Như vậy, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội mua bán trái phép chất ma túy.

Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố đối với bị cáo T T M về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 điều 194 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2] Bị cáo T T M sinh ra và lớn lên tại xã ĐP, huyện B, tỉnh C. Được đi học hết lớp 6 thì bỏ học, khi thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy, bị cáo biết là sai nhưng vẫn bất chấp thực hiện. Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết phải xử lý bị cáo mức hình phạt nghiêm khắc để cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để giáo dục, cải tạo bị cáo thành người có ích cho gia đình và xã hội. Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải. Do đó, cần cho bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự.

[3] Về xử lý vật chứng: 01 (một) phong bì bên trong có chứa tang vật (heroin) và 01 (một) lọ nhựa màu trắng cũ đã qua sử dụng cần tịch thu tiêu hủy; Số tiền 241.000,đ (Hai trăm bốn mươi mốt nghìn đồng) trong quá trình điều tra và tại phiên tòa đã làm rõ 200.000,đ (Hai trăm nghìn đồng) là do bị cáo bán ma túy mà có, còn 41.000,đ (Bốn mươi mốt nghìn đồng) bị cáo không chứng minh được nguồn gốc của số tiền này nên xét cần tịch thu sung công quỹ nhà nước; 01 (một) điện thoại di động bị cáo dùng để liên lạc mua ma túy nên xét cần tịch thu phát mại sung công quỹ nhà nước; 01 (một) xe máy Wave α, màu xanh, biển kiểm soát 12F5 - 3321 và 01 (một) giấy chứng nhận đăng ký mô tô xe máy mang tên H T B. Bị cáo sử dụng để đi mua bán ma túy nên xét cần tịch thu phát mại sung công quỹ nhà nước; 01 (một) chứng minh nhân dân mang tên T T M xét cần trả lại cho bị cáo.

[4] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của Pháp luật.

Vì các lẽ trên!

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo T T M phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”

Áp dụng: điểm b khoản 2 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự

Xử phạt bị cáo T T M 07 (bảy) năm tù, Thời gian thụ hình tính từ ngày bị cáo bị bắt là ngày 03/6/2017.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điều 41, Điều 42 Bộ luật Hình sự; Điều 76 Bộ luật Tố tụng Hình sự.

Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) phong bì bên trong có chứa tang vật (heroin) mặt trước phong bì ghi: Mẫu số 02 phần để lại tang vật bắt quả tang vụ T T M, sinh năm 1996, trú tại xóm LQ, xã ĐP, huyện B, tỉnh C; mặt sau có đóng dấu giáp lai ở 4 góc phong bì và có chữ ký của những người cùng tham gia niêm phong và 01 (một) lọ nhựa màu trắng cũ đã qua sử dụng

Tịch thu sung công quỹ nhà nước số tiền 241.000,đ (Hai trăm bốn mươi mốt nghìn đồng)

Tịch thu phát mại sung công quỹ nhà nước 01 (một) điện thoại di động, mặt trước màu trắng, mặt sau màu vàng có chữ IphoneS, đã qua sử dụng; 01 (một) xe máy Wave α, màu xanh, biển kiểm soát 12F5 - 3321, số máy CPI1152FMH003983, số khung EPCH00A1D003983, xe đã qua sử dụng; 01 (một) giấy chứng nhận đăng ký mô tô xe máy mang tên H T B.

Trả lại cho bị cáo 01 (một) Giấy chứng minh nhân dân mang tên T T M.

3. Về án phí: Áp dụng Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016.

Bị cáo T T M phải chịu 200.000,đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm sung công quỹ nhà nước.

Án xử sơ thẩm có mặt bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan. Bị cáo người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng có trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

193
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 15/2017/HSST ngày 18/09/2017 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:15/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bảo Lạc - Cao Bằng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/09/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về