Bản án 151/2019/HNGĐ-ST ngày 15/11/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 151/2019/HNGĐ-ST NGÀY 15/11/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON 

Ngày 15 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số: 709/2019/TLST-HNGĐ 18/7/2019 về việc “Tranh chấp ly hôn, nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 177/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 09 tháng 10 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 129/2019/QĐST-HNGĐ ngày 28/10/2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Bạch M, sinh năm 1983; thường trú: 60/59C Nguyễn Văn K, phường V, thành phố R, tỉnh K; có yêu cầu giải quyết vắng mặt.

- Bị đơn:Anh Võ Văn P, sinh năm 1985; thường trú: 60/59C Nguyễn Văn K, phường V, thành phố R, tỉnh K; tạm trú: 165/8, khu phố T, phường B, thị xã D, tỉnh B; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 09/7/2019 và các lời khai trong quá trình tố tụng, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Bạch M trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Sau thời gian tìm hiểu, chị Nguyễn Thị Bạch M và anh Võ Văn P tự nguyện tiến đến hôn nhân vào năm 2004, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã V, huyện R, tỉnh K vào ngày 17/5/2004 theo giấy chứng nhận kết hôn số 110, quyển số 01. Việc kết hôn của chị M và anh P là tự nguyện và được hai bên gia đình chấp nhận. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống với nhau tại nhà riêng của hai vợ chồng ở tỉnh Kiên Giang, đến năm 2014 chuyển lên thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương thuê nhà trọ để sinh sống và làm việc. Vợ chồng sống với nhau hạnh phúc cho đến năm 2009 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do anh P thường xuyên uống rượu, về nhà đánh đập chị, vì thương các con nên chị cố gắng tiếp tục chung sống với anh P. Mặc dù nhiều lần chị khuyên bảo anh P không uống rượu nữa nhưng anh P vẫn không thay đổi, đến năm 2017 chị chuyển về quê ở tỉnh Kiêng Giang để sinh sống và vợ chồng ly thân từ thời gian đó cho đến nay. Trong khoảng thời gian ly thân, vợ chồng không quan tâm chăm sóc đến nhau. Nhận thấy, tình cảm vợ chồng không còn nên chị M yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh P.

Về con chung: Quá trình chung sống vợ chồng có 03 con chung là cháu Võ Thị Mỹ H, sinh ngày 16/9/2003; cháu Võ Thị Huyền T, sinh ngày 16/3/2008 và cháu Võ Thị P T, sinh ngày 27/4/2014. Hiện các con chung đang sinh sống cùng với chị M. Chị M yêu cầu sau ly hôn trực tiếp nuôi 03 con chung và không yêu cầu anh P có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đối với bị đơn anh Võ Văn P: Sau khi Tòa án thụ lý vụ án đã tiến hành tống đạt thông báo thụ lý yêu cầu anh P có ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của chị M nhưng anh P không có ý kiến, cũng không cung cấp tài liệu, chứng cứ gì. Tòa án đã tống đạt văn bản tố tụng yêu cầu anh P tham gia hòa giải nhưng anh P vắng mặt không có lý do. Vì vậy, vụ án không tiến hành hòa giải được theo quy định tại Điều 207 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Đồng thời, Tòa án tống đạt văn bản tố tụng yêu cầu anh P tham gia phiên tòa vào ngày 28/10/2019 và ngày 15/11/2019 nhưng anh P vẫn vắng mặt không có lý do. Như vậy, việc giải quyết yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được xem xét trên cơ sở chứng cứ do nguyên đơn cung cấp.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

Quá trình tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa, nguyên đơn đã chấp hành và tuân theo pháp luật đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự; đối với bị đơn đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng không chấp hành theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn có yêu cầu giải quyết vắng mặt, bị đơn đã được triệu tập tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt không có lý do. Vì vậy, Tòa án căn cứ vào Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt các đương sự là đúng với qui định của pháp luật.

Về nội dung vụ án: Vợ chồng chị Nguyễn Thị Bạch M và anh Võ Văn P không còn tình cảm, nguyên nhân do anh P thường xuyên uống rượu, đánh đập chị M, vợ chồng đã ly thân từ năm 2017 cho đến nay. Suốt quá trình tố tụng, anh P không có ý kiến gì trước yêu cầu khởi kiện của chị M. Vì vậy, yêu cầu khởi kiện của chị M là có căn cứ. Đề nghị, Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát tham gia phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Nguyên đơn chị Nguyễn Thị Bạch M có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt. Bị đơn anh Võ Văn P đã được triệu tập hợp lệ tham gia phiên tòa vào ngày 28/10/2019 và ngày 15/11/2019 nhưng vắng mặt không có lý do. Căn cứ vào Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự.

[2] Xem xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn thấy rằng:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Bạch M và anh Võ Văn P là vợ chồng, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Vĩnh Thanh, huyện Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang vào ngày 17/5/2004 theo giấy chứng nhận kết hôn số 110, quyển số 01 nên quan hệ hôn nhân là hợp pháp. Quá trình tố tụng chị M xác định trong cuộc sống vợ chồng có nhiều mâu thuẫn, cụ thể là anh P thường xuyên uống rượu, rồi đánh đập chị. Vợ chồng đã ly thân nhau từ năm 2017 cho đến nay, trong khoảng thời gian ly thân vợ chồng không quan tâm, chăm sóc lẫn nhau. Quá trình tố tụng Tòa án đã triệu tập anh P đến Tòa án để hòa giải, hàn gắn tình cảm vợ chồng, có ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện và các chứng cứ do chị M cung cấp nhưng anh P không đến. Điều này chứng tỏ tình trạng hôn nhân giữa chị M và anh P đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, chị M yêu cầu ly hôn là có căn cứ chấp nhận, phù hợp với qui định tại Điều 51, 56 Luật Hôn nhân và gia đình.

Về con chung: Quá trình chung sống chị Nguyễn Thị Bạch M và anh Võ Văn P có 03 con chung là cháu Võ Thị Mỹ H, sinh ngày 16/9/2003; cháu Võ Thị Huyền T, sinh ngày 16/3/2008 và cháu Võ Thị P T, sinh ngày 27/4/2014. Hiện nay, các con chung đang sống cùng với chị M. Việc giao con cho ai nuôi phải bảo đảm quyền lợi của con chưa thành niên. Xét thấy, trong suốt quá trình tố tụng anh P không có ý kiến thể hiện nguyện vọng mong muốn nuôi con chung hay không. Đồng thời, các cháu H, T và T đều là con gái nên cần sự nuôi dưỡng trực tiếp của người mẹ, bên cạnh đó trong khoảng thời gian hai vợ chồng ly thân thì các con chung đều do chị M trực tiếp nuôi dưỡng và vẫn đảm bảo cho các cháu phát triển về mọi mặt. Do đó, chị M yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng các con chung là phù hợp với các Điều 81, 82 Luật Hôn nhân và gia đình. Chị M không yêu cầu anh P có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con, xét đây là ý chí tự nguyện của chị M nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Chị Nguyễn Thị Bạch M không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[3] Ý kiến của Kiểm sát viên là phù hợp với quan điểm của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

[4] Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị Bạch M chịu án phí ly hôn theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, Điều 147, Điều 228, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; các Điều 51, 56, 58, 81, 82, 83 và 84 của Luật Hôn nhân và gia đình; điểm a, khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Bạch M được ly hôn với anh Võ Văn P (theo giấy chứng nhận kết hôn số 110, quyển số 01 do Ủy ban nhân dân xã V, huyện R, tỉnh K cấp ngày 17/5/2004).

2. Về con chung: Anh Võ Văn P có trách nhiệm giao 03 con chung là cháu Võ Thị Mỹ H, sinh ngày 16/9/2003; cháu Võ Thị Huyền T, sinh ngày 16/3/2008 và cháu Võ Thị P T, sinh ngày 27/4/2014 cho chị Nguyễn Thị Bạch M tiếp tục nuôi dưỡng. Ghi nhận sự tự nguyện của chị Nguyễn Thị Bạch M không yêu cầu anh Võ Văn P có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

Sau ly hôn, anh Võ Văn P có quyền chăm sóc, thăm nom, giáo dục con, chị Nguyễn Thị Bạch M không có quyền cản trở anh Võ Văn P thực hiện quyền này. Vì lợi ích về mọi mặt của con khi một hoặc cả hai bên đương sự có yêu cầu, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và việc cấp dưỡng.

3. Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Chị Nguyễn Thị Bạch M không yêu cầu nên không xem xét, giải quyết.

4. Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị Bạch M phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn, được khấu trừ hết vào tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0028929 ngày 18/7/2019 của Chi cục thi hành án dân sự thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương.

5. Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

236
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 151/2019/HNGĐ-ST ngày 15/11/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:151/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về