Bản án 151/2018/HNGĐ-ST ngày 15/06/2018 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 151/2018/HNGĐ-ST NGÀY 15/06/2018 VỀ  LY HÔN

Ngày 15 tháng 6 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân TP B có mở phiên tòa công khai xét xử sơ thẩm vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số: 2699/2017/TLST–HNGĐ ngày 20 tháng 12 năm 2017 về“ ly hôn”, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 120/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 28 tháng 5 năm 2018.

Nguyên đơn: Bà Bùi Thị H, sinh năm 1990.

Địa chỉ: Tổ 10, ấp L, xã T, TP. B, tỉnh Đồng Nai.

Bị đơn: Ông Phạm Văn H, sinh năm 1982.

Địa chỉ: Tổ 10, ấp L, xã T TP. B, tỉnh Đồng Nai.

(Bà H có mặt, ông H có đơn xin vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

*Theo đơn khởi kiện ngày 16/10/2017, các lời khai tại hồ sơ và tại phiên tòa, nguyên đơn bà Bùi Thị H trình bày:

Bà và ông Phạm Văn H xây dựng gia đình năm 2008, hôn nhân tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Gi, huyện Gi, tỉnh Nam Định (Giấy chứng nhân kết hôn số 47/2008 ngày 15/5/2008 của Ủy ban nhân dân xã Gi, huyện Gi, tỉnh Nam Định). Thời gian đầu chung sống hạnh phúc, nhưng thời gian sau này thì phát sinh nhiều mâu thuẫn. Nguyên nhân do bất đồng quan điểm sống cũng như cách nuôi dạy con cái. Mặc dù đã nhiều lần được hai gia đình hai bên hòa giải khuyên bảo nhưng cả hai vợ chồng vẫn không giải quyết được những mâu thuẫn mà mâu thuẩn vợ chồng ngày càng trầm trọng. Nay, bà xét thấy không còn tình cảm với ông H, cuộc sống vợ chồng ngày càng áp lực căng thẳng. Vì vậy bà xin được ly hôn với ông H để trả tự do cho nhau.

-Về con chung: Có 02 cháu:

1/ Phạm Thị Lan A, sinh ngày:12/6/2010.

2/ Phạm Thành L, sinh ngày: 13/6/2012.

Trước đây bà xin được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Phạm Thành L vì cháu L còn nhỏ, đồng ý giao cháu Phạm Thị Lan A cho ông H trực tiếp nuôi dưỡng nhưng nay xét thấy, cháu Phạm Thị Lan A là con gái, nguyện vọng của cháu là muốn sống với mẹ nên bà xin trực tiếp nuôi dưỡng cháu Phạm Thị Lan A, đồng ý giao cháu Phạm Thành L cho ông H trực tiếp nuôi dưỡng. Tạm thời không ai phải cấp dưỡng nuôi con.

-Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

-Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

*Tại bản tự khai ngày 19/3/2018, bị đơn ông Phạm Văn H trình bày:

Ông và bà H xây dựng gia đình năm 2008, hôn nhân tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Gi, huyện Gi, tỉnh Nam Định. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc, đến tháng 8/2017 thì có phát sinh mâu thuẫn, từ tháng 8/2017, hai vợ chồng đã sống ly thân cho đến nay. Ông vẫn còn tình cảm với bà H nên mong muốn Tòa hòa giải đoàn tụ. Đặt trường hợp bà H cương quyết xin ly hôn và đồng ý giao cả hai con cho ông nuôi dưỡng thì ông đồng ý ly hôn.

-Về con chung: Có 02 con chung:

1/ Phạm Thị Lan A, sinh ngày:12/6/2010.

2/ Phạm Thành L, sinh ngày: 13/6/2012.

Nếu Tòa giải quyết cho ly hôn thì ông xin nuôi cả hai con, không yêu cầu bà H cấp dưỡng nuôi con.

-Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

-Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả xét hỏi tại phiên tòa.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Về thủ tục tố tụng:

Bà Bùi Thị H và ông Phạm Văn H kết hôn trên cơ sở tự nguyện có đăng ký kết hôn, đã được cấp giấy chứng nhận kết hôn theo quy định của pháp luật, được xác định là hôn nhân hợp pháp. Nay có đơn xin ly hôn thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, Tòa án nhân dân thành phố B đã thụ lý giải quyết vụ án theo quy định tại Điều 28 và Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự.

Xét ông Phạm Văn H là bị đơn trong vụ án có đơn xin vắng mặt hòa giải và xét xử. Căn cứ vào khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.

Về Nội dung vụ án:

Hội đồng xét xử xét thấy:

[1]Về quan hệ hôn nhân: Bà Bùi Thị H và ông Phạm Văn H kết hôn trên cơ sở tự nguyện có đăng ký kết hôn, đã được cấp giấy chứng nhận kết hôn theo quy định của pháp luật, được xác định là hôn nhân hợp pháp. Bà H, ông H sau khi kết hôn, chung sống với nhau hạnh phúc được một thời gian, đến tháng 8 năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do bất đồng quan điểm sống.

Ông H khai vẫn còn tình cảm với bà H nên mong Tòa hòa giải đoàn tụ nhưng từ tháng 8/2017 đến nay, ông và bà H vẫn không tìm được tiếng nói chung, hiện hai vợ chồng vẫn sống ly thân. Tại bản tự khai ngày 19/3/2018, ông H cũng thừa nhận vợ chồng ông có xảy ra mâu thuẫn, đã sống ly thân từ tháng 8/2017. Ông khẳng định vẫn còn tình cảm với vợ, không đồng ý ly hôn nhưng lại đưa ra điều kiện, nếu bà H đồng ý giao cả hai con cho ông trực tiếp nuôi dưỡng thì ông đồng ý ly hôn. Điều đó thể hiện ông không còn tình cảm với vợ mà không muốn ly hôn vì không muốn xa con. Vì vậy có căn cứ chấp nhận đơn xin ly hôn của bà H.

[2]Về con chung: Có 02 con chung:

1/ Phạm Thị Lan A, sinh ngày:12/6/2010.

2/ Phạm Thành L, sinh ngày: 13/6/2012.

Ông H có nguyện vọng xin nuôi cả hai con, không yêu cầu bà H cấp dưỡng nuôi con chung. Bà H yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà nuôi cháu Phạm Thị Lan A, đồng ý giao cháu Phạm Thanh L cho ông H trực tiếp nuôi dưỡng. Tạm thời không ai phải cấp dưỡng nuôi con.

Nguyện vọng của ông H bà H về việc nuôi con là chính đáng, cả hai ông bà đều có công việc làm và thu nhập, có đủ điều kiện chăm sóc và nuôi dưỡng các con, tuy nhiên cháu Phạm Thị Lan A có nguyện vọng được sống chung với mẹ, bà H cũng có nguyện vọng được nuôi cháu. Vì vậy có căn cứ để giao cháu Phạm Thị Lan A cho bà H trực tiếp nuôi dưỡng, giao cháu Phạm Thanh L cho ông H trực tiếp nuôi dưỡng. Tạm thời không ai phải cấp dưỡng nuôi con.

[3]Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra xem xét.

[4]Về nợ chung: Không có nên không đặt ra xem xét.

[5] Về án phí HNGĐ-ST: Bà H phải chịu tiền án phí xin ly hôn là 300.000đ.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào các Điều 28, Điều  35, Điều 39, Điều 203, Điều 220; khoản 1 Điều 228 Bộ Luật Tố Tụng dân sự

- Ap dụng Điều 56, 58, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn Nhân Gia đình

- Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về án phí lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Bùi Thị H

-Về quan hệ hôn nhân: Cho ly hôn giữa bà Bùi Thị H và ông Phạm Văn H.

-Về con chung: Có 02 con chung:

1/ Phạm Thị Lan A sinh ngày:12/6/2010.

2/ Phạm Thành L, sinh ngày: 13/6/2012.

Giao cháu Phạm Thị Lan A, sinh ngày 12/6/2010 cho bà H trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng, giao cháu Phạm Thanh L, sinh ngày 13/6/2012 cho ông Hưng trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Tạm thời không ai phải cấp dưỡng nuôi con.

Bà H, ông H được quyền thăm nom con chung không ai được cản trở, vì lợi ích của con, khi cần thiết hai bên có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con và cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung và nợ chung: không đặt ra để xem xét.

- Về án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Bà Bùi Thị H phải chịu 300.000đ (ba trăm ngàn đồng). số tiền tạm ứng án phí bà Hồng đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 003755 ngày 12 tháng 12 năm 2017 của Chi cục thi hành án dân sự TP. Biên Hòa.

Nguyên đơn có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày kể từ ngày được tống đạt hợp lệ bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

218
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 151/2018/HNGĐ-ST ngày 15/06/2018 về ly hôn

Số hiệu:151/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/06/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về