TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN HÀ ĐÔNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 150/2020/HS-ST NGÀY 24/08/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 24 tháng 8 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Hà Đông, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 152/2020/TLST-HS ngày 28 tháng 7 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 146/2020/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 8 năm 2020 đối với bị cáo:
HOÀNG ÁNH D, sinh năm 1994; ĐKHKTT và nơi ở: Khu X, thị trấn TL, huyện HH, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá (học vấn): Lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hoàng Văn C và bà Nguyễn Thị Phương T; chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt, tạm giữ, tạm giam: Từ ngày 13/3/2020; hiện đang bị tạm giam tại Trại Tạm giam số 2 Công an thành phố Hà Nội; có mặt tại phiên tòa.
Người làm chứng: Ông Nguyễn Chí Q, sinh năm 1954; nơi cư trú: Số 32 NG, phường NT, quận HĐ, thành phố Hà Nội; vắng mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng giữa tháng 02 năm 2020, Hoàng Ánh D có quen biết với đối tượng tên H (hiện chưa xác minh được nhân thân) và biết H là đối tượng bán ma túy. Khoảng ngày 09/3/2020, D liên lạc với H thông qua Zalo để hỏi mua 30.000.000 đồng ma túy, gồm Ketamine và “kẹo” để sử dụng và bán lại kiếm lời. Hai bên hẹn nhau giao ma túy tại khu vực đường Nguyễn Khuyến thuộc địa phận phường Văn Quán, quận Hà Đông. Khi gặp nhau, H nhận số tiền trên và giao cho D 01 túi nilon bên trong chứa ma túy Ketamine và 01 túi nilon bên trong chứa 15 viên nén hình tròn màu cam (ma túy dạng “kẹo”). Sau khi mua được ma túy, D mang về cất tại phòng trọ ở số YY khu YP, thuộc Tổ 4, phường PL, quận HĐ để sử dụng dần và bán.
Hồi 20 giờ 55 phút ngày 13/3/2020, D nhận được điện thoại của một nam thanh niên tự xưng là “Bát Giới” ở khu vực chợ La Cả thuộc phường Dương Nội, quận Hà Đông hỏi mua 05 viên nén ma túy dạng “kẹo” và 02 “chỉ” Ketamine, hẹn mang đến vòng xuyến đường Lê Trọng Tấn, quận Hà Đông giao. D đồng ý và lấy 03 túi nilon đựng ma túy Ketamine dạng tinh thể màu trắng và 05 viên nén hình tròn màu cam (ma túy dạng “kẹo”), rồi cất vào chiếc túi da màu đen (dạng túi cầm tay) và gọi taxi đi đến điểm hẹn giao dịch mua bán ma túy. Sau khi gọi taxi, D cầm chiếc túi da màu đen ở tay phải và đi bộ ra khu vực ngã tư phố Yên Phúc -Yên Bình, phường Phúc La, quận Hà Đông, thành phố Hà Nội thì bị lực lượng Công an kiểm tra, phát hiện hành vi của D cất giữ ma túy trên người nên lực lượng Công an lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ và niêm phong số vật chứng là ma túy nêu trên.
Vật chứng của vụ án đã thu giữ gồm: 02 túi nilon kích thước (3x4)cm bên trong có tinh thể màu trắng; 01 túi nilon kích thước (6x10)cm bên trong có tinh thể màu trắng; 05 viên nén màu cam kích thước (1x2)cm; 01 túi da màu đen dạng túi cầm tay kích thước (20x30)cm; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu vàng, số imei 357325093032944; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu đen, số imei:
359477083404274 và 500.000 đồng tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đang lưu hành.
Cơ quan điều tra đã quyết định trưng cầu giám định đối với số vật chứng thu giữ, niêm phong nêu trên. Tại bản Kết luận giám định số 2181/KLGĐ-PC09 ngày 20/3/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hà Nội, kết luận: Tinh thể màu trắng bên trong 02 túi nilon kích thước (3x4)cm đều là ma túy loại Ketamine, tổng khối lượng 3,445 gam; tinh thể màu trắng bên trong 01 túi nilon kích thước (6x10)cm là ma túy loại Ketamine, khối lượng 23,544 gam; 05 viên nén màu cam đều là ma túy loại MDMA, tổng khối lượng 2,528 gam.
Trong giai đoạn điều tra, Hoàng Ánh D đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.
Cáo trạng số 152/CT-VKS-HĐ ngày 28/7/2020 của Viện kiểm sát nhân dân quận Hà Đông, thành phố Hà Nội truy tố bị cáo Hoàng Ánh D về tội Mua bán trái phép chất ma túy theo điểm p khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Tại phiên tòa, bị cáo Hoàng Ánh D khai nhận hành vi phạm tội, tỏ ra ăn năn hối cải, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Hà Đông, thành phố Hà Nội luận tội cho rằng tại phiên tòa bị cáo khai báo phù hợp với lời khai trong giai đoạn điều tra, truy tố và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở kết luận cáo trạng truy tố bị cáo theo tội danh và điều khoản đã viện dẫn là có căn cứ nên giữ nguyên nội dung truy tố. Hành vi của bị cáo nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách độc quyền của Nhà nước về quản lý chất ma túy, ảnh hưởng xấu đến trật tự xã hội và là nguyên nhân của các tội phạm khác. Bị cáo nhận thức được hành vi trái pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện, cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian dài để cải tạo, giáo dục bị cáo. Tuy nhiên, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, lần đầu phạm tội, nhân thân chưa có tiền án, tiền sự nên được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ để giảm nhẹ hình phạt. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm p khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo từ 07 đến 09 năm tù. Do bị cáo không có nghề nghiệp ổn định nên đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
Xử lý vật chứng: Đề nghị tịch thu sung quỹ Nhà nước chiếc điện thoại Iphone màu vàng thu giữ của bị cáo; trả lại bị cáo chiếc điện thoại Iphone màu đen và số tiền 500.000 đồng; tịch thu tiêu hủy phong bì chứa ma túy và chiếc túi da màu đen.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân quận Hà Đông; Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện trong vụ án đều hợp pháp.
Về đánh giá chứng cứ trong vụ án: Lời khai nhận tội của bị cáo Hoàng Ánh D tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo trong giai đoạn điều tra, truy tố; phù hợp với lời khai của người làm chứng, biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Có đủ cơ sở để kết luận: Hoàng Ánh D quen người tên H và biết H bán ma túy. Do có mục đích mua ma túy để sử dụng và bán kiếm lời, khoảng ngày 09/3/2020, tại khu vực đường Nguyễn Khuyến thuộc địa phận phường Văn Quán, quận Hà Đông, D mua ma túy của H với số tiền 30.000.000 đồng, gồm 01 túi nilon chứa Ketamine và 01 túi nilon chứa 15 viên nén hình tròn màu cam MDMA. Sau khi mua được ma túy, D mang về cất tại phòng trọ ở số YY khu YP, thuộc Tổ 4, phường PL, quận HĐ để sử dụng và bán dần.
Hồi 20 giờ 55 phút ngày 13/3/2020, D nhận được cuộc điện thoại của một nam thanh niên hỏi mua ma túy, hẹn mang đến vòng xuyến đường Lê Trọng Tấn, quận Hà Đông giao. D đồng ý và lấy 03 túi nilon tinh thể Ketamine cân nặng 26,989 gam và 05 viên nén hình tròn màu cam MDMA cân nặng 2,528 gam, rồi đến điểm hẹn bán ma túy. Hồi 21 giờ 20 phút cùng ngày, khi D đi đến khu vực ngã tư phố Yên Phúc - Yên Bình, phường Phúc La, quận Hà Đông, thành phố Hà Nội thì bị bắt quả tang cùng vật chứng.
Hành vi của bị cáo Hoàng Ánh D là mua bán trái phép chất ma túy. Bị cáo khai sau khi mua 01 túi nilon chứa Ketamine và 01 túi nilon chứa 15 viên nén hình tròn màu cam MDMA của người tên H, bị cáo đã bán 04 lần cho 04 người không quen biết, Cơ quan điều tra cũng đã khám xét nơi ở của bị cáo nhưng không thu giữ được đồ vật tài liệu gì liên quan đến ma túy (BL70). Ngoài lời khai của bị cáo, không có tài liệu nào khác chứng minh nên Viện kiểm sát truy tố bị cáo hành vi mua bán trái phép chất ma túy với lượng ma túy đã thu giữ khi bắt quả tang là có căn cứ.
Bị cáo mua bán trái phép chất ma túy Ketamine và MDMA, là hai chất ma túy không cùng một điểm thuộc các khoản của Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, trong đó khối lượng Ketamine là 26,989 gam thuộc trường hợp quy định tại điểm n khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự; khối lượng MDMA là 2,528 gam (dưới 5 gam) không thuộc trường hợp quy định tại điểm i khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự. Áp dụng hướng dẫn tại khoản 3 Điều 5 Nghị định số 19/2018/NĐ-CP ngày 02/02/2018 của Chính phủ Quy định về việc tính tổng khối lượng hoặc thể tích chất ma túy tại một số điều của Bộ luật Hình sự năm 2015, tỷ lệ phần trăm về khối lượng từng chất ma túy so với mức tối thiểu đối với từng chất tương ứng quy định tại khoản 3 Điều 251 của Bộ luật Hình sự như sau:
Tỷ lệ phần trăm chất MDMA: 2,528 gam so với 30 gam (mức tối thiểu quy định tại điểm b khoản 3 Điều 251 của Bộ luật Hình sự) là 8,4%;
Tỷ lệ phần trăm chất Ketamine: 26,989 gam so với 100 gam (mức tối thiểu quy định tại điểm e khoản 3 Điều 251 của Bộ luật Hình sự) là 26,9%;
Tổng tỷ lệ phần trăm về khối lượng hai chất ma túy là 35,3%, dưới 100%. Áp dụng điểm b khoản 3 Điều 5 Nghị định số 19/2018/NĐ-CP ngày 02/02/2018 của Chính phủ, hành vi của bị cáo thuộc trường hợp áp dụng điểm p khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Viện kiểm sát nhân dân quận Hà Đông truy tố bị cáo theo điểm p khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng pháp luật.
Xem xét tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi và các tình tiết có ảnh hưởng đến trách nhiệm hình sự của bị cáo thấy rằng bị cáo Hoàng Ánh D mua ma túy để bán nhằm mục đích kiếm lời, hành vi của bị cáo góp phần làm cho tệ nạn ma túy trong xã hội ngày càng gia tăng, cần xử lý nghiêm, áp dụng hình phạt tù cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ tác dụng trừng trị, giáo dục bị cáo nói riêng, phòng ngừa tội phạm nói chung. Tuy nhiên, bị cáo đã thành khẩn khai báo, thể hiện thái độ ăn năn hối cải nên được áp dụng 02 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 để giảm nhẹ hình phạt. Xét bị cáo không có tình tiết tăng nặng, có 02 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; nhân thân chưa có tiền án, tiền sự nên có thể quyết định hình phạt ở mức khởi điểm của khung hình phạt cũng bảo đảm mục đích của hình phạt.
Về xử lý vật chứng: Cơ quan điều tra thu giữ của bị cáo Hoàng Ánh D:
- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu vàng, số imei 357325093032944; kết quả kiểm tra chiếc điện thoại gắn sim số thuê bao 0969590181 (BL42), bị cáo khai là số điện thoại nhận cuộc gọi của người mua ma túy và truy cập Zalo để liên hệ mua ma túy của đối tượng H, phù hợp với danh sách chi tiết lịch sử liên lạc của thuê bao (BL75 đến 79), xác định là phương tiện bị cáo sử dụng trong quá trình thực hiện hành vi phạm tội nên cần tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước;
- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu đen, số imei: 359477083404274, kết quả kiểm tra chiếc điện thoại gắn sim số thuê bao 0867970094 (BL41), bị cáo khai dùng để liên hệ với gia đình và bạn bè. Không có tài liệu chứng minh bị cáo dùng chiếc điện thoại màu đen vào việc phạm tội nên trả lại bị cáo;
- 02 túi nilon kích thước (3x4)cm và 01 túi nilon kích thước (6x10)cm đều chứa ma túy loại Ketamine, tổng khối lượng 26,989 gam, Cơ quan giám định trích mẫu 1,344gam; 05 viên nén màu cam là MDMA tổng khối lượng 2,528 gam, Cơ quan giám định trích mẫu 0,503gam. Sau khi trích mẫu giám định, số còn lại được cho vào 01 phong bì dán kín, tại mép dán có chữ ký của đối tượng Hoàng Ánh D, cán bộ Nguyễn Tân A và giám định viên Trần Ngọc C1 (BL35, 36), là vật Nhà nước cấm lưu thông, cần tịch thu tiêu hủy;
- 01 túi da màu đen dạng túi cầm tay kích thước (20x30)cm, là vật bị cáo đựng ma túy mang đi bán, không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy;
- Số tiền 500.000 đồng, bị cáo khai là tiền do bị cáo lao động mà có (BL60 và tại phiên tòa); đồng thời không có tài liệu chứng minh liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo xét xử trong vụ án nên cần trả lại bị cáo nhưng tiếp tục tạm giữ để bảo đảm thi hành án.
Bị cáo được trừ thời gian tạm giữ, tạm giam vào hình phạt tù, cứ mỗi ngày tạm giữ, tạm giam được tính trừ một ngày tù. Bị cáo bị bắt quả tang hành vi phạm tội từ 21 giờ 20 phút ngày 13/3/2020 và bị tạm giữ để điều tra, sau đó bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ, tạm giam đến nay nên tính thời hạn tạm giữ từ ngày 13/3/2020 để bảo đảm quyền lợi cho bị cáo. Bị cáo pH chịu án phí theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố bị cáo Hoàng Ánh D phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy.
Áp dụng điểm p khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Hoàng Ánh D 07 (bảy) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 13/3/2020.
2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015; căn cứ Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, - Tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu vàng, số thuê bao 0969590181;
- Tịch thu tiêu hủy:
+ 01 (một) phong bì dán kín, tại mép dán có chữ ký của đối tượng Hoàng Ánh D, cán bộ Nguyễn Tân A và giám định viên Trần Ngọc C1;
+ 01 (một) túi da màu đen;
- Trả lại bị cáo 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu đen, số thuê bao 0867970094;
- Trả lại bị cáo số tiền 500.000 (năm trăm nghìn) đồng, nhưng tiếp tục tạm giữ để bảo đảm thi hành án.
Toàn bộ số vật chứng trên hiện đang lưu giữ tại Chi Cục Thi hành án dân sự quận Hà Đông, thành phố Hà Nội theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 18/8/2020 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Hà Đông, thành phố Hà Nội và Chi cục Thi hành án dân sự quận Hà Đông, thành phố Hà Nội;
Số tiền 500.000 (năm trăm nghìn) đồng hiện đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Hà Đông, thành phố Hà Nội, tài khoản số 3949.0.1052739 tại Kho bạc Nhà nước quận Hà Đông, thành phố Hà Nội, theo Ủy nhiệm chi ngày 14/8/2020, người nộp tiền Công an quận Hà Đông, thành phố Hà Nội.
3. Về án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo Hoàng Ánh D pH nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.
4. Án xử công khai sơ thẩm, bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án 24/8/2020.
Bản án 150/2020/HS-ST ngày 24/08/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 150/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Hà Đông - Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 24/08/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về