TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
BẢN ÁN 150/2019/HS-PT NGÀY 17/05/2019 VỀ TỘI CHỐNG NGƯỜI THI HÀNH CÔNG VỤ VÀ CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
Ngày 17 tháng 5 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 15/2019/HSPT ngày 04 tháng 01 năm 2019 đối với bị cáo Nguyễn Trung T. Do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 66/2018/HSST ngày 08/10/2018 của Tòa án nhân dân huyện T.
- Bị cáo có kháng cáo:
Nguyễn Trung T, sinh năm: 1999, tại Đồng Nai; Nơi cư trú: ấp 9/4, xã X, huyện T, tỉnh Đồng Nai; Nghề nghiệp: Học sinh; Trình độ học vấn: 11/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Phật giáo; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn L (đã chết) và bà Lê Thị N (1954); Chưa có vợ con; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 15/04/2018 đến ngày 11/05/2018 được áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt.
- Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư Trương Lê Minh T1 – Đoàn Luật sư tỉnh Đồng Nai. (Có mặt)
- Ngoài ra còn có các bị cáo khác và người bị hại không có kháng cáo và không bị kháng cáo, kháng nghị; Tòa án không triệu tập.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo tài liệu trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Thực hiện kế hoạch số 04/CAH-CSGT ngày 02/04/2018 của Công an huyện T và kế hoạch công tác tuần số 15/KH-CSGT ngày 09/4/2018 của Đội Cảnh sát giao thông Công an huyện T về việc xử lý chuyên đề môtô, nồng độ cồn và các hành vi khác trên tuyến đường ĐT769 từ Km00 đến Km01+500 khu vực xã X và khu vực xã B 2, huyện T, tỉnh Đồng Nai. Tổ công tác gồm đồng chí Thượng úy Trần L - Tổ trưởng và các tổ viên Thượng úy Trần Triệu P, Thượng úy Nguyễn Huy C, Trung úy Đỗ Phạm Tuấn A kết hợp với tổ an toàn giao thông tuần tra kiểm soát theo quy định.
Đến khoảng 21 giờ 20 phút ngày 14/04/2018, khi tổ công tác đang thực hiện nhiệm vụ tuần tra tại tuyến đường liên xã thuộc ấp L, xã X, huyện T, tỉnh Đồng Nai thì phát hiện 03 đối tượng gồm Nguyễn Trung L1, Nguyễn Trung T và Nguyễn Trọng Đ đang điều khiển 03 xe môtô biển số 60B7 – 522.xx, 59T1 – 723.xx và 60B8 – 351.xx lạng lách, đánh võng có biểu hiện đã sử dụng rượu bia. Tổ công tác đã ra hiệu lệnh dừng các xe môtô biển số 60B7- 522.xx do Nguyễn Trung T điều khiển; xe môtô biển số 59T1-723.xx do Nguyễn Trọng Đ điều khiển để yêu cầu kiểm tra theo quy định. Sau khi dừng xe, T và Đ chống đối không xuất trình giấy tờ, không thực hiện yêu cầu của tổ tuần tra đồng thời có hành vì xô đẩy, dùng lời lẽ xúc phạm, nhục mạ tổ công tác. Riêng L1 thấy vậy cũng dừng xe vào lề đường và tham gia cùng đồng bọn.
Gặp sự phản kháng của Đ và T, Thượng úy Nguyễn Huy C đã sử dụng bộ đàm liên lạc với tổ công tác yêu cầu hỗ trợ. Lúc này, Thượng úy Trần L và Thượng úy Trần Triệu P cùng với các anh trong tổ an toàn giao thông cũng có mặt để hỗ trợ, yêu cầu T và Đ chấp hành hiệu lệnh, xuất trình giấy tờ nhưng T và Đ không chấp hành, đồng thời có hành vi, lời lẽ chống đối. Nguyễn Trung T và Nguyễn Trung L1 vừa sử dụng điện thoại ghi hình vừa to tiếng dùng lời lẽ mạt sát, xúc phạm tổ công tác. Tổ công tác kiên quyết lập biên bản, dắt xe vào trong lề đường để xử lý thì L1 và Đ chặn giữ xe lại, không cho tổ công tác đưa phương tiện vào tập kết, còn T đã sử dụng điện thoại di động của mình, bật chế độ mở đèn chiều sáng (đèn led) tiến sát lại gần, dí điện thoại sát mặt và chiếu thẳng đèn vào mặt Thượng úy P vừa quay hình vừa dùng lời lẽ khích bác, thách thức Thượng úy P. Thượng úy P đã dùng tay gạt tay của T ra, làm rớt điện thoại của T xuống đường. T liền dùng tay hất văng điện thoại của Thượng úy P đang quay phim xuống đường và xông vào xô xẩy, dùng tay phải đấm thẳng trúng vào mặt của Thượng úy P gây thương tích rách môi trên. Thượng úy Trần L cùng Trung úy Đỗ Phạm Tuấn A, Thượng úy Nguyễn Huy C vào hỗ trợ khống chế bắt giữ T. Trong lúc đang bị khống chế, T vùng ra, nhặt mũ bảo hiểm đã rơi xuống đất đập thẳng 01 cái trúng vào mặt của Thượng úy P gây thương tích gãy xương chính mũi, rách mí mắt.
Thấy T bị tổ công tác khống chế, Nguyễn Trọng Đ xông vào tấn công các đồng chí trong tổ công tác để giải vây cho đồng bọn, tuy nhiên ngay sau đó, Nguyễn Trung T và Nguyễn Trọng Đ đều bị tổ công tác khống chế bắt giữ. Cùng lúc này, Nguyễn Trọng L1 chạy vào nhà dân gần đó lấy 02 con dao (loại dao thái, dài 30cm, cán dao bằng nhựa màu đen) xông vào tấn công tổ công tác để giải vây cho Đ và T. Sau khi giải vây cho đồng bọn, L1 đưa cho Đ 01 con dao Thái Lan, còn T nhặt lấy mũ bảo hiểm và hô hào, kêu gọi đồng bọn đánh tổ công tác. Cả ba cầm hung khí xông vào tấn công tổ công tác, dí đuổi đánh Thượng úy Trần L ngã vào tường rào nhà dân. Nguyễn Trung L1 cầm dao xông tới đâm, Thượng úy Trần L đưa tay phải lên đỡ, nhát dao trúng vào ngón tay phải của Thượng úy Trần L gây thương tích. Còn Nguyễn Trung T từ phía sau tiếp tục xông tới, sử dụng mũ bảo hiểm đánh vào mặt Thượng úy L gây thương tích nhưng không đáng kể.
Ngay sau khi sự việc xảy ra, Công an xã X đã hỗ trợ phối hợp bắt giữ Nguyễn Trung T, Nguyễn Trung L1 và Nguyễn Trọng Đ đưa về trụ sở Công an xã X lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.
Căn cứ Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 0420/GĐPY/2018 ngày 08/6/2018 của Trung tâm pháp y sở y tế Đồng Nai xác định Thượng úy Trần Thiệu P bị tổn thương gãy xương chính mũi, không ảnh hưởng chức năng thở và ngửi; Vết thương đuôi lông mày trái để lại sẹo kích thước 02x0.2cm và vết thương niêm mạc môi trên bên trái để lại sẹo kích thước 03x0.3cm. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên tại thời điểm giám định là 11%.
Căn cứ Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 0421/GĐPY/2018 ngày 04/6/2018 của Trung tâm pháp y sở y tế Đồng Nai xác định Thượng úy Trần L vết thương ngón II bàn tay phải để lại sẹo kích thước 03x0.2cm. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên tại thời điểm giám định là 01%.
- Vật chứng vụ án:
+ 02 con dao (loại dao thái, dài 30cm, cán dao bằng nhựa màu đen) mà Nguyễn Trung L1 và Nguyễn Trọng Đ sử dụng làm công cụ phạm tội.
+ 01 mũ bảo hiểm, màu xanh – đen Nguyễn Trung T đã sử dụng làm công cụ phạm tội.
+ Xe môtô biển số 60B7 – 522.xx của Nguyễn Trung T; Xe môtô biển số 60B8-351.xx của Nguyễn Trung L1; Xe có giấy tờ hợp lệ, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T đã trao trả chủ sở hữu.
+ Xe môtô BS: 59T1 – 723.xx của Nguyễn Trọng Đ. Xe không có giấy tờ hợp lệ. Nguyễn Trọng Đ khai mua chiếc xe môtô trên qua mạng xã hội Facebook của một người thanh niên (không rõ nhân thân, lai lịch). Cơ quan CSĐT Công an huyện T đã tiến hành xác minh nguồn gốc xe và ra thông báo truy tìm người liên quan và chủ sở hữu chiếc xe môtô 59T1 – 723.xx trên đa phương tiện thông tin quần chúng nhưng đến nay chưa làm rõ được nguồn gốc chiếc xe trên. Cơ quan CSĐT Công an huyện T tiếp tục điều tra làm rõ, xử lý sau.
- Về dân sự:
Thượng úy Trần Triệu P không yêu cầu bị cáo Nguyễn Trung T bồi thường dân sự.
Thượng úy Trần L có đơn không yêu cầu xử lý hình sự và không yêu cầu bồi thường dân sự.
Tại Bản cáo trạng số: 41/CT.VKS-HS ngày 26/06/2018, Viện kiểm sát nhân dân huyện T, tỉnh Đồng Nai truy tố bị cáo Nguyễn Trung T về tội “Chống người thi hành công vụ” và “Cố ý gây thương tích” theo khoản 1 Điều 330 và khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự năm 2015.
Tại bản án hình sự sơ thẩm số: 66/2018/HSST ngày 08/10/2018 của Toà án nhân dân huyện T đã áp dụng khoản 1 Điều 330; điểm a, k khoản 1 và điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm s khoản 1, Điều 51, Điều 55 Bộ luật Hình sự năm 2015; xử phạt bị cáo Nguyễn Trung T 08 (tám) tháng tù về tội “Chống người thi hành công vụ”; 02 (hai) năm tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Tổng hợp hình phạt buộc Nguyễn Trung T phải chấp hành hình phạt chung là 02 (hai) năm 08 (tám) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo thi hành án (Được trừ thời gian tạm giam từ ngày 15/04/2018 đến ngày 11/05/2018).
Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về án phí, biện pháp tư pháp và quyền kháng cáo theo luật định.
Ngày 22/10/2018, bị cáo Nguyễn Trung T kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Quan điểm Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai:
Hành vi của bị cáo Nguyễn Trung T đã phạm vào tội “Chống người thi hành công vụ” theo khoản 1 Điều 330 và tội “Cố ý gây thương tích” theo khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự 2015. Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét các tình tiết giảm nhẹ để xét xử bị cáo với mức án 08 tháng tù về tội “Chống người thi hành công vụ” và 02 năm tù về tội “Cố ý gây thương tích” buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của 02 tội là: 02 năm 08 tháng tù là phù hợp với tính chất và hành vi phạm tội của bị cáo. Bị cáo kháng cáo nhưng không cung cấp thêm được tình tiết giảm nhẹ nào mới. Ngoài những tình tiết đã được cấp sơ thẩm xem xét. Đề nghị Hội đồng xét xử bác kháng cáo của bị cáo. Y án sơ thẩm.
Ý kiến của Luật sư bào chữa cho bị cáo Nguyễn Trung T:
Cho rằng bị cáo không có hành vi cố ý gây thương tích cho anh Trần Triệu P là Cảnh sát giao thông đang làm nhiệm vụ mà do các anh Cảnh sát giao thông cầm dùi cui đánh bị cáo, bị cáo chỉ dùng mủ bảo hiểm để tự vệ, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử làm rõ đoạn băng ghi hình do bị cáo quay lúc các anh cảnh sát giao thông đánh bị cáo, hiện máy điện thoại bị cáo bị hư, đề nghị cho khôi phục lại để làm căn cứ xem xét. Ngoài ra, luật sư còn đề nghị Hội đồng xét xử xem xét hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn, mẹ bị cáo bị bệnh tim, bản thân bị cáo hiện còn đang đi học để xem xét giảm nhẹ mức hình phạt đối với bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: đơn kháng cáo của bị cáo làm trong hạn luật định nên được xem xét theo thủ tục phúc thẩm.
[2] Xét kháng cáo của bị cáo:
Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Trung T thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản án sơ thẩm đã nêu. Hồ sơ thể hiện: Vào lúc 21 giờ 20 ngày 14/04/2018, tại đường liên xã thuộc ấp L, xã X, huyện T, tỉnh Đồng Nai, tổ công tác về việc xử lý chuyên đề môtô, nồng độ cồn và các hành vi khác trên tuyến đường ĐT769 từ Km00 đến Km01+500 khu vực xã X và khu vực xã B 2, huyện T, tỉnh Đồng Nai do Thượng úy Trần L làm tổ trưởng cùng các Thượng úy Nguyễn Huy C, Thượng úy Trần Triệu P và Trung úy Đỗ Phạm Tuấn A (tổ viên) đang thực hiện nhiệm vụ tuần tra kiểm soát giao thông theo kế hoạch số 04/CAH- CSGT ngày 02/04/2018 của Công an huyện T và kế hoạch công tác tuần số 15/KH-CSGT ngày 09/4/2018 của Đội Cảnh sát giao thông Công an huyện T. Phát hiện Nguyễn Trung T và Nguyễn Trọng Đ đang điều khiển 02 xe môtô biển số 59T1 – 723.xx và 60B8 – 351.xx có biểu hiện đã sử dụng rượu bia và vi phạm luật giao thông, tổ công tác đã ra hiệu lệnh dừng xe môtô và kiểm tra hành chính đối với Nguyễn Trung T, Nguyễn Trọng Đ. Tại đây, Nguyễn Trung T cùng Nguyễn Trung L1, Nguyễn Trọng Đ đã có hành vi, lời lẽ cản trở, chống đối, xúc phạm, nhục mạ, khiêu khích đối với các đồng chí đang thi hành công vụ. T dùng tay, nón bảo hiểm; L1 đi lấy 02 con dao đưa cho Đ 01 con bản thân cầm 01 con đánh, đâm các đồng chí trong tổ tuần tra đang làm nhiệm vụ. Nguyễn Trung T dùng tay và nón bảo hiểm đánh Thượng úy Trần Triệu P gây thương tích 11%. Nguyễn Trung L1 dùng dao gây thương tích cho Thượng úy Trần L 01%.
Toà án cấp sơ thẩm xác định bị cáo Nguyễn Trung T phạm tội “Chống người thi hành công vụ” theo khoản 1 Điều 330 Bộ luật Hình sự năm 2015; phạm tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm a, k khoản 1 và điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015 là có căn cứ và đúng pháp luật.
Hành vi của bị cáo Nguyễn Trung T là gây nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến hoạt động quản lý hành chính của cơ quan Nhà nước, làm mất an ninh trật tự tại địa phương. Ngoài ra, bị cáo T còn có hành vi xâm hại sức khoẻ của người khác được pháp luật bảo vệ, dẫn đến hậu quả gây thương tích cho bị hại với tỷ lệ 11%.
Khi xét xử, Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét các tình tiết giảm nhẹ: bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; do đó xử phạt bị cáo Nguyễn Trung T mức án 08 (tám) tháng tù về tội “Chống người thi hành công vụ”; 02 (hai) năm tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Tổng hợp hình phạt buộc Nguyễn Trung T phải chấp hành hình phạt chung là 02 (hai) năm 08 (tám) tháng tù là phù hợp và thỏa đáng.
Tại cấp phúc thẩm, bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt nhưng bị cáo không cung cấp được tình tiết nào mới do đó kháng cáo của bị cáo không có căn cứ chấp nhận.
[3] Về án phí:
Kháng cáo của bị cáo Nguyễn Trung T không được chấp nhận nên bị cáo T phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
[4] Quan điểm và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
[5] Quan điểm và đề nghị của Luật sư bào chữa cho bị cáo không phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên không được chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;
Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Trung T, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Áp dụng khoản 1 Điều 330; điểm a, k khoản 1 và điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm s khoản 1, Điều 51, Điều 55 Bộ luật Hình sự năm 2015;
Xử phạt bị cáo Nguyễn Trung T 08 (Tám) tháng tù về tội “Chống người thi hành công vụ”; 02 (hai) năm tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Tổng hợp hình phạt buộc Nguyễn Trung T phải chấp hành hình phạt chung là 02 (hai) năm 08 (tám) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo thi hành án (được trừ thời gian tạm giam từ ngày 15/04/2018 đến ngày 11/05/2018).
Về án phí: Áp dụng Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Quốc Hội.
Bị cáo Nguyễn Trung T phải chịu 200.000đ án phí hình sự phúc thẩm.
Các Quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 150/2019/HS-PT ngày 17/05/2019 về tội chống người thi hành công vụ và cố ý gây thương tích
Số hiệu: | 150/2019/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Đồng Nai |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 17/05/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về