Bản án 150/2017/HS-ST ngày 15/11/2017 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN TÂY HỒ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 150/2017/HS-ST NGÀY 15/11/2017 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 15 tháng 11 năm 2017 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Tây Hồ, Thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 154/2017/HSST ngày 20 tháng 10 năm 2017 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 160/2017/QĐXXST-HS ngày 31 tháng 10 năm 2017 đối với bị cáo:

Hàn Tiến P, sinh năm 1963; HKTT: Số 31, hẻm 460/7/42, T, phường B, quận T,Thành phố H; Nơi cư trú: Lang thang; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: 7/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Hàn Tiến L(đã chết) và bà Nguyễn Thị T(đã chết); gia đình có 04 anh chị em, bị cáo là con thứ 4; Danh chỉ bản số 0000000245 do Công an quận T lập ngày 15/8/2017; Tiền án: Có 01 tiền án đã được xóa án tích: Bản án số 1306 ngày 23/11/1990 Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao xử 02 năm tù về tội cướp tài sản của công dân; Tiền sự: Có 01 tiền sự đã hết thời hiệu, tháng 12/1994 Công an quận Ba Đình xử lý về hành vi đA bạc; Bị cáo đầu thú, bị bắt ngày 07/8/2017. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số 1 công an Thành phố Hà Nội, có mặt tại phiên tòa.

Người bị hại: Anh Trương Cảnh D, sinh năm 1978; HKTT: Yên Nhân, Yên Mô, Ninh Bình; Hiện trú tại: Nhà số 8, ngõ 66/10 Võng Thị, phường Bưởi, quận Tây Hồ, Thành phố Hà Nội, xin vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 06 giờ ngày 07/8/2017 P đi lang thang đến khu vực Võng Thị, phường Bưởi, quận Tây Hồ, Hà Nội, mục đích để trộm cắp tài sản. Khi đến dãy nhà trọ số 8, ngõ 66, Võng Thị, phường Bưởi, quận Tây Hồ, Hà Nội P phát hiện trong sân dựng 01 chiếc xe máy Yamaha   Nouvo BKS 29U4-1173 của anh Trương Cảnh D, xe không khóa cổ, khóa càng. Quan sát xung quanh không thấy ai nên P đã dắt chiếc xe máy của anh D đến trước cửa số nhà 7A, ngách 460/55 T, T, H, để xe tại đó rồi đi bộ đến nhà của Đỗ Đức T (sinh năm 1984, HKTT: Số 251, Lương Yên, phường Bạch Đằng, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội), P nhờ T đến chỗ P để xe để chữa khóa chiếc xe cho P. Sau đó P thỏa thuận với T cho P cầm cố chiếc xe máy trên với giá 600.000đồng,T đưa cho P 600.000đồng, P để lại xe máy cho T.

Cùng ngày 07/8/2017 do thấy hành vi của mình là sai trái nên P đã đến công an phường Bưởi để đầu thú.

Vật chứng thu giữ:

- 30.000đ (ba mươi nghìn đồng).

- 01 chiếc xe máy Yamaha Nouvo BKS 29U4-1173.

Tại Kết luận định giá tài sản số 149/KL-HĐĐG ngày 15/8/2017 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự, quận Tây Hồ kết luận giá trị của chiếc xe máy Yamaha Nouvo BKS  29U4-1173, số khung 036785, số máy 36785 là 5.000.000đồng (năm triệu đồng).

Người bị hại là anh Trương Cảnh D đã có đơn trình báo tại cơ quan công an về việc bị mất chiếc xe máy Yamaha Nouvo BKS 29U4-1173.

Qua điều tra xác định chiếc xe máy Yamaha Nouvo BKS 29U4-1173 là nguyên thủy, đăng ký xe mang tên chị Trương Thị A (địa chỉ: Đào X, Đa T, Gia L, H). Hiện chị A đã đi khỏi nơi cư trú, không rõ chị A đang ở đâu.

Anh D khai anh mua chiếc xe trên năm 2010 của anh Nguyễn Văn Th (sinh năm 1960, HKTT: Số 11, Trần P, ĐB, B, H), khi mua anh Th có viết giấy bán xe và giao cho anh giấy đăng ký xe.

Anh Th khai anh có quen biết với chị Trương Thị A, năm 2009 anh mua của chị A chiếc xe máy trên, khi mua chị A có viết giấy bán xe cho anh, do thời gian đã lâu nên giấy bán xe của chị A viết cho anh, anh không còn giữ. Năm 2011 anh đã bán chiếc xe đó cho anh D, khi bán anh có viết giấy bán xe và đã giao cho anh D bản chính đăng ký xe.

Qua xác minh xác định anh D là người quản lý sử dụng chiếc xe máy trên, anh D có giữ bản chính đăng ký xe và giấy bán xe do anh Th viết. Anh D đã có đơn xin lại chiếc xe máy trên. Ngày 28/8/2017 cơ quan Cảnh sát điều tra công an quận T đã ra quyết định xử lý vật chứng, trao trả chiếc xe máy Yamaha Nouvo BKS 29U4 cho anh D. Anh D đã nhận lại tài sản không có yêu cầu gì về việc bồi thường dân sự và đề nghị xử lý đối tượng theo đúng quy định của pháp luật.

Đối với Đỗ Đức T là người bị cáo khai đã cầm cố chiếc xe máy do bị cáo trộm cắp mà có, hiện T không có mặt tại nơi cư trú. Ngày 03/10/2017 cơ quan điều tra công an quận T đã có quyết định tách rút tài liệu liên quan đến hành vi của Đỗ Đức T để tiếp tục xác minh làm rõ.

Bản cáo trạng số 147/CT-VKS ngày 20/10/2017 của Viện kiểm sát nhân dân quận T đã truy tố bị cáo Hàn Tiến P về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa hôm nay bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu trên. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận T luận tội: Sau khi phân tích tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, kết luận bị cáo Hàn Tiến P phạm tội “trộm cắp tài sản”, đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX) áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 33; Điều 41 của Bộ luật hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án, lệ phí Tòa án, xử phạt bị cáo Hàn Tiến P từ 12 (mười hai) đến 18 (mười tám) tháng tù giam. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. Vật chứng: Tịch thu sung quỹ nhà nước số tiền 30.000đ (ba mươi nghìn đồng) thu giữ của bị cáo. Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo nói lời sau cùng trước khi HĐXX nghị án: Bị cáo biết việc bị cáo trộm cắp tài sản của anh D là vi phạm pháp luật, đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra công an quận T, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận T, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến gì về quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung: Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 06 giờ ngày 07/8/2017, tại khu vực số 8, ngõ 66, V, phường B, quận T, H, Hàn Tiến P đã có hành vi lén lút chiếm đoạt 01 chiếc xe máy Yamaha Nouvo BKS 29U4, của anh Trương Cảnh D, có giá trị 5.000.000đồng (năm triệu đồng).

Hành vi của bị cáo Hàn Tiến P đã phạm tội “trộm cắp tài sản” được quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự, như lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận T là đúng.

Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân, gây mất trật tự trị an xã hội; bị cáo có nhân thân xấu: Có 01 tiền án mặc dù đã được xóa án tích, có 01 tiền sự đã hết thời hiệu nhưng bị cáo vẫn phạm tội với lỗi cố ý, do vậy cần phải áp dụng mức hình phạt tương xứng, cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian đủ để giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

Khi lượng hình HĐXX xét bị cáo thành khẩn khai báo, quá trình điều tra bị cáo đầu thú, tài sản bị cáo trộm cắp đã thu hồi và trả lại cho bị hại làm căn cứ giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Bị cáo không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về trách nhiệm dân sự người bị hại đã nhận lại tài sản, không yêu cầu bồi thường nên Tòa án không xem xét quyết định.

Đối với số tiền 600.000đồng bị cáo khai bị cáo cầm cố chiếc xe của anh D cho T. Hiện cơ quan điều tra đã có quyết định tách rút tài liệu liên quan đến Đỗ Đức T để tiếp tục xác minh làm rõ. Do vậy nên không đủ căn cứ xác định số tiền bị cáo đã cầm cố chiếc xe trên nên không có căn cứ để buộc bị cáo phải truy nộp. Đối với số tiền 30.000đồng thu giữ của bị cáo, bị cáo khai là tiền do cầm cố chiếc xe của anh D mà có nên tịch thu sung quỹ nhà nước số tiền này.

Án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt hợp lệ bản án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Hàn Tiến P phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 138; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 33; Điều 41 của Bộ luật hình sự;

Căn cứ vào các Điều 76; 99; 231 và Điều 234 của Bộ luật tố tụng hình sự;

Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Xử phạt:  Bị cáo Hàn Tiến P 10 (mười) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 07/8/2017.

Xử lý vật chứng (hiện đang lưu giữ tại kho bạc nhà nước quận T, biên bản giao nhận tài sản ngày 29/8/2017):

Tịch thu sung quỹ nhà nước số tiền 30.000đ (ba mươi nghìn đồng) thu giữ của bị cáo.

Án phí: Bị cáo Hàn Tiến P phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người bị hại có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

214
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 150/2017/HS-ST ngày 15/11/2017 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:150/2017/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Tây Hồ - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/11/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về