Bản án 149/2021/HS-ST ngày 11/06/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy và tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐIỆN BIÊN, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 149/2021/HS-ST NGÀY 11/06/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY VÀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 13 tháng 5 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện ĐB, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 143/2021/TLST-HS ngày 31 tháng 3 năm 2021 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 154/2019/QĐXXST-HS ngày 29 tháng 4 năm 2021; Quyết định hoãn phiên tòa số: 21 ngày 13/5/2021 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Lò Văn D; Tên gọi khác: Không; Sinh năm: 1988 tại Điện Biên; Nơi cư trú: Bản PM, xã TC, huyện ĐB, tỉnh Điện Biên; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ văn hoá: 09/12; Dân tộc: Thái; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Lò Văn Y (Đã chết) và Con bà: Lò Thị T; sinh năm 1965; Bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Năm 2009 đi cơ sở giáo dục Thanh Hà thời gian 24 tháng đến ngày 20/10/2011 Bị cáo chấp hành xong; Ngày 26/9/2016, Bị cáo bị TAND thành phố Điện Biên Phủ xử phạt 24 tháng tù về tội "Mua bán trái phép chất ma túy". Đến ngày 10/3/2018 chấp hành xong hình phạt tù trở về địa phương sinh sống; Nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ từ ngày 08/12/2020, sau đó bị tạm giam cho đến ngày xét xử (có mặt tại phiên tòa).

2. Họ và tên: Lò Văn D1; Tên gọi khác: Không; sinh năm: 1999 tại Điện Biên; Nơi cư trú: Bản X, xã P L, huyện ĐB, tỉnh Điện Biên; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ văn hoá: 10/12; Dân tộc: Thái; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không;

Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Lò Văn D2; sinh năm 1975 và Con bà: Lò Thị ; sinh năm 1975; Bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Chưa bị kết án, chưa bị xử phạt vi phạm hành chính;

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ từ ngày 05/12/2020, sau đó bị tạm giam cho đến ngày xét xử (có mặt tại phiên tòa).

3. Họ và tên: Quàng Văn Đ; Tên gọi khác: Không; Sinh năm: 1999 tại Điện Biên; Nơi cư trú: Bản C T, xã T Y, huyện ĐB, tỉnh Điện Biên; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ văn hoá: 07/12; Dân tộc: Thái; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Quàng Văn M; sinh năm 1972 và Con bà: Lường Thị H; sinh năm 1982; Bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Chưa bị kết án, chưa bị xử phạt vi phạm hành chính.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ từ ngày 05/12/2020, sau đó bị tạm giam cho đến ngày xét xử (có mặt tại phiên tòa).

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Lường Thị Hồng; sinh năm 1982; địa chỉ: Bản C T, xã T Y, huyện ĐB, tỉnh Điện Biên (vắng mặt có lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lò Văn D là người nghiện chất ma túy, để có tiền mua ma túy sử dụng và chi tiêu cá nhân nên trong thời gian từ ngày 04/12/2020 đến ngày 05/12/2020 D đã nhiều lần bán trái phép chất ma túy cho Lò Văn D1 và Quàng Văn Đ để D1 và Đ sử dụng cho bản thân, cụ thể:

Lần 1: Khoảng 20 giờ ngày 04/12/2020 khi Lò Văn D đang ở nhà thì có Quàng Văn Đ và Lò Văn D1 đi xe mô tô biển kiểm soát 27B1- 622.98 đến hỏi mua ma túy để sử dụng. Tại bếp nhà D khi D1 lấy 50.000 đồng ra đưa cho D thì Đ bảo D: “anh bán cho em 50.000 đồng Heroine” nghe vậy, D đồng ý cầm tiền D1 đưa rồi một mình đi ra đường thuộc khu vực Bản PM, xã TC gặp và mua được của một người phụ nữ không biết tên, địa chỉ một gói Heroine được gói bằng nilon màu xanh với giá 50.000 đồng, mua được Heroine, D đã dùng tay cấu ra một ít để sử dụng bằng hình thức hít tại khu vực đường thuộc Bản PM, xã TC, huyện ĐB, sử dụng xong D gói lại như cũ rồi cầm gói Heroine đi về nhà, thấy Đ và D1 đang ngồi trong bếp, lúc đó Đ nói với D: “anh cứ để xuống đấy cho bọn em” nghe vậy D đã để gói Heroine xuống sàn bếp trước mặt Đ và D1. Sau đó Đ cầm gói Heroine và cùng D1 điều khiển xe mô tô đi ra khu vực cánh đồng thuộc Bản PM, xã TC, huyện ĐB sử dụng hết.

Lần 2: Khoảng 20 giờ ngày 05/12/2020 khi Lò Văn D đang ở nhà thì Quàng Văn Đ và Lò Văn D1 cùng đi xe mô tô biển kiểm soát 27B1- 622.98 đến hỏi mua ma túy tại cổng nhà D, Đ gọi: “anh D ơi, em Đ đây mở cổng cho em”.

Nghe tiếng Đ gọi D đi ra cổng gặp Đ và D1. Tại đây D1 nói với D: “anh lấy cho em 200.000 hồng phiến” đồng thời D1 đưa cho D 200.000 đồng, D đồng ý cầm tiền của D1 đưa rồi bảo D1 và Đ đứng đợi ở cổng nhà, còn D một mình đi bộ vào trong khu vực Bản PM, xã TC gặp và mua được của một người phụ nữ (không biết tên, địa chỉ) 04 viên Methamphetamine được gói bên ngoài bằng nilon màu xanh và một gói Heroine được gói bằng nilon màu trắng với giá 120.000 đồng. Sau đó D quay lại chỗ D1 và Đ đứng chờ và đưa gói Methamphetamine cho D1, khi đó D đã sử dụng đèn pin của điện thoại của mình để soi cho D1 kiểm tra gói Methamphetamine, Đ chứng kiến toàn bộ việc trao đổi mua bán ma túy giữa D1 và D. Sau khi mua được Methamphetamine, D1 cầm ở tay trái rồi đi ra đứng cạnh xe mô tô. Lúc này Đ đi ra chỗ D nói: “anh cho em vay 50.000 nghìn Heroine” D đồng ý bán cho Đ một gói Heroine được gói bằng nilon màu trắng. Sau khi mua được Heroine, Đ cất giấu gói Heroine ở khe ngón chân cái bàn chân bên phải của mình sau đó quay lại chỗ D1 đang đứng đợi rồi điều khiển xe mô tô chở D1 đi về nhà, việc Đ trao đổi mua bán Heroine với D, D1 không hề biết. Hồi 21 giờ cùng ngày khi Đ và D1 điều khiển xe mô tô đi đến khu vực bản Pa Bói, xã Thanh Yên, huyện ĐB thì bị Công an xã Thanh Yên, huyện ĐB kiểm tra, phát hiện bắt quả tang thu giữ tại khe ngón chân cái bàn chân phải của Đ một gói Heroine được gói bên ngoài bằng nilon màu trắng có khối lượng 0,15gam; Thu giữ tại tay trái D1 đang cầm 04 viên Methamphetamine được gói bên ngoài bằng nilon màu xanh có tổng khối lượng là 0,37 gam.

Trên cơ sở lời khai của Quàng Văn Đ và Lò Văn D1 ngày 07 tháng 12 năm 2020 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện ĐB đã tiến hành khởi tố vụ án, khởi tố bị can và ra lệnh bắt bị can để tạm giam đối với Lò Văn D.

Tại biên bản mở niêm phong xác định khối lượng ngày 06/12/2020 đã xác định: Khối lượng số viên nén màu hồng nghi ma túy tổng hợp thu giữ của Lò Văn D1 có khối lượng là 0,37 gam, trích 0,09 gam gửi giám định, vật chứng còn lại là 0,28 gam; Khối lượng số cục bột màu trắng nghi Heroine thu giữ của Quàng Văn Đ có khối lượng là 0,15 gam, trích 0,05 gam gửi giám định, vật chứng còn lại là 0,1 gam.

Tại bản kết luận giám định số: 05/GĐ-PC09 ngày 13/12/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên kết luận: Mẫu viên nén màu hồng nghi ma túy tổng hợp trích ra từ vật chứng thu giữ của Lò Văn D1 gửi giám định là ma túy loại Methamphetamine, nằm trong danh mục các chất ma túy, STT: 323, Mục IIC; Danh mục II, Nghị định 73/2018/NĐ- CP ngày 15/05/2018. Không hoàn lại đối tượng giám định.

Tại bản kết luận giám định số: 06/GĐ-PC09 ngày 13/12/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên kết luận: Mẫu chất bột màu trắng trích ra từ vật chứng thu giữ của Quàng Văn Đ gửi giám định là ma túy loại Heroine, nằm trong danh mục chất ma túy, STT 9, Mục IA, Danh mục I, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018. Không hoàn lại đối tượng giám định.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa các Bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận giám định trên của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên.

Về vật chứng của vụ án: Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện ĐB đã chuyển vật chứng của vụ án sang cho Chi cục thi hành án dân sự huyện ĐB gồm:

Chất ma túy thu giữ của Lò Văn D1 có khối lượng là 0,37 gam, trích 0,09 gam gửi giám định, vật chứng còn lại là 0,28 gam;

Chất ma túy thu giữ của Quàng Văn Đ có khối lượng là 0,15 gam, trích 0,05 gam gửi giám định, vật chứng còn lại là 0,1 gam.

01 xe mô tô biển kiểm soát 27B1-622.98 nhãn hiệu HONDA WAVE RSX, màu đỏ đen, xe đã cũ đã qua sử dụng thu của Quàng Văn Đ và Lò Văn D1.

01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA, màu đen loại bàn phím, không có sim thu của Lò Văn D.

Bản cáo trạng số: 77/CT-VKSĐB ngày 30/3/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện ĐB, tỉnh Điện Biên truy tố bị cáo Lò Văn D về tội "Mua bán trái phép chất ma túy" theo điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự; truy tố bị cáo Quàng Văn Đ về tội: "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự; truy tố bị cáo Lò Văn D1 về tội: "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, Đ diện Viện kiểm sát nhân dân huyện ĐB, tỉnh Điện Biên vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với các Bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

* Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Đề nghị xử phạt bị cáo Lò Văn D: Từ 07 năm 06 tháng đến 08 năm tù về tội "Mua bán trái phép chất ma túy".

* Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58 Bộ luật hình sự, Đề nghị xử phạt bị cáo Quàng Văn Đ: Từ 01 năm 06 tháng đến 01 năm 09 tháng tù về tội: "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

* Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58 Bộ luật hình sự.

Đề nghị xử phạt bị cáo Lò Văn D1: Từ 01 năm 03 tháng đến 01 năm 06 tháng tù về tội: "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

Không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với các Bị cáo.

* Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1, khoản 2 Điều 47 Bộ luật hình sự và điểm a, b khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy 0,37 gam Methamphetamine (đã trích 0,09 gam gửi giám định, vật chứng còn lại 0,28 gam); Tịch thu tiêu hủy 0,15 gam Heroine (đã trích 0,05 gam gửi giám định, vật chứng còn lại 0,1 gam);

Truy thu số tiền 250.000 đồng của bị cáo Lò Văn D đã bán ma túy cho bị cáo D1 để nộp vào ngân sách Nhà nước.

Tịch thu bán sung ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA, màu đen loại bàn phím, không có sim thu của Lò Văn D.

Trả lại cho chị Lường Thị Hồng 01 xe mô tô biển kiểm soát 27B1-622.98 nhãn hiệu HONDA WAVE RSX, màu đỏ đen, xe cũ đã qua sử dụng, không kiểm tra máy móc bên trong.

* Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23, điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án buộc các bị cáo Lò Văn D, Quàng Văn Đ, mỗi người phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm; miễn 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Lò Văn D1.

Tại phiên tòa, các Bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng và bản luận tội của Kiểm sát viên. Thực hiện lời nói sau cùng các Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các Bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi phạm tội của các Bị cáo: Tại phiên tòa Lò Văn D khai nhận trong thời gian từ ngày 04/12/2020 đến ngày 05/12/2020 tại nhà ở và trước cổng nhà D đã hai lần bán trái phép chất ma túy cho Lò Văn D1 và Quàng Văn Đ cụ thể: Lần 1: Khoảng 20 giờ ngày 04/12/2020 khi Lò Văn D đang ở nhà thì có Quàng Văn Đ và Lò Văn D1 đi xe mô tô biển kiểm soát 27B1- 622.98 đến hỏi mua ma túy để sử dụng, D đã bán cho D1 50.000 đồng Heroine, khi mua được ma túy của D, Đ và D1 đã sử dụng hết. Lần 2: Khoảng 20 giờ ngày 05/12/2020 khi Lò Văn D đang ở nhà thì Quàng Văn Đ và Lò Văn D1 cùng đi xe mô tô biển kiểm soát 27B1- 622.98 đến hỏi mua ma túy tại cổng nhà D, D đã bán cho D1 200.000 đồng Methamphetamine và bán nợ cho Đ 50.000 đồng Heroine. Hồi 21 giờ cùng ngày, khi Đ và D1 điều khiển xe mô tô đi đến khu vực bản Pa Bói, xã Thanh Yên, huyện ĐB thì bị Công an xã Thanh Yên, huyện ĐB kiểm tra, phát hiện bắt quả tang thu giữ tại khe ngón chân cái bàn chân phải của Đ một gói Heroine được gói bên ngoài bằng nilon màu trắng có khối lượng 0,15gam; Thu giữ tại tay trái D1 đang cầm 04 viên Methamphetamine được gói bên ngoài bằng nilon màu xanh có tổng khối lượng là 0,37gam.

Căn cứ vào lời khai của Quàng Văn Đ và Lò Văn D1 ngày 07 tháng 12 năm 2020 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện ĐB đã tiến hành khởi tố vụ án, khởi tố bị can và ra lệnh bắt bị can để tạm giam đối với Lò Văn D.

Lời khai nhận của các Bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của các Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tại Cơ quan điều tra, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác do Cơ quan điều tra tiến hành thu thập hợp pháp có trong hồ sơ vụ án.

Hội đồng xét xử đã đủ cơ sở kết luận: Trong các ngày 04/12/2020 và 05/12/2020 tại nhà ở và trước cổng nhà của Lò Văn D ở Bản PM, xã TC, huyện ĐB, Lò Văn D đã ba lần bán ma túy cho Quàng Văn Đ và Lò Văn D1, mục đích mua ma túy của Đ và D1 là để sử dụng cho bản thân cụ thể: Ngày 04/12/2020 Lò Văn D bán 01 gói Heroine với giá 50.000 đồng cho Lò Văn D1, số ma túy này D1 và Đ đã sử dụng hết; Ngày 05/12/2020 Lò Văn D đã bán 04 viên Methamphetamine được gói bên ngoài bằng nilon màu xanh có khối lượng 0,37 gam với giá 200.000 đồng cho Lò Văn D1 và bán cho Quàng Văn Đ 01 gói Heroinne có khối lượng 0,15 gam với giá 50.000 đồng. Hồi 21 giờ cùng ngày, khi Đ và D1 điều khiển xe mô tô đi đến khu vực bản Pa Bói, xã Thanh Yên, huyện ĐB thì bị Công an xã Thanh Yên, huyện ĐB phát hiện bắt quả tang thu giữ vật chứng của vụ án. Vì vậy, hành vi nêu trên của bị cáo Lò Văn D đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Riêng đối với bị cáo Quàng Văn Đ đã sử dụng xe mô tô để chở bị cáo Lò Văn D1 đi mua ma túy để cùng nhau sử dụng nên Quàng Văn Đ phải chịu trách nhiệm hình sự về khối lượng 0,37gam Methamphetamine đã thu giữ của Lò Văn D1 và khối lượng chất ma túy mà Đ cất giấu là 0,15 gam Heroine, tổng khối lượng hai chất ma túy mà bị cáo Đ phải chịu là 0,52 gam, vì vậy hành vi nêu trên của bị cáo Quàng Văn Đ đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Hành vi của bị cáo Lò Văn D1 đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự Điều 251 Bộ luật Hình sự quy định:

“ 2. Phạm tội trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:

....

b) Phạm tội 02 lần trở lên”.

Điều 249 Bộ luật Hình sự quy định:

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma tuý mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

...

c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR- 11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

i) Có 02 chất ma túy trở lên mà tổng khối lượng hoặc thể tích của các chất đó tương đương với khối lượng hoặc thể tích chất ma túy quy định taiij một trong các điểm từ điểm b đếm điểm h khoản này”.

Vì vậy, bản luận tội của Kiểm sát viên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

Các bị cáo Lò Văn D, Lò Văn D1 và Quàng Văn Đ là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự.

Trong quá trình thực hiện hành vi phạm tội các bị cáo D1 và Đ là đồng phạm giản đơn không có phân công vai trò, trách nhiệm cụ thể cho từng người, việc mua bán ma túy của nhau chỉ nhằm mục đích sử dụng cho bản thân lên các Bị cáo chỉ phải chịu trách nhiệm, mức độ hình phạt của từng Bị cáo theo quy định của pháp luật.

Từ những phân tích trên, khẳng định Viện kiểm sát nhân dân huyện ĐB, tỉnh Điện Biên truy tố bị cáo Lò Văn D về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự; truy tố bị cáo Lò Văn D1 về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự và truy tố bị cáo Quàng Văn Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là hoàn toàn đúng người, đúng tội và có căn cứ pháp luật.

[2] Xét tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội: Hành vi mua ma túy sau đó bán lại cho người khác để thu được số tiền 250.000 đồng của bị cáo Lò Văn D là rất nghiêm trọng và nguy hiểm cho xã hội. Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng của các bị cáo Lò Văn D1, Quàng Văn Đ là nghiêm trọng và nguy hiểm cho xã hội, bởi nó đã trực tiếp xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy. Vì vậy, việc truy tố, xét xử và áp dụng mức hình phạt thỏa đáng đối với các Bị cáo là cần thiết, có như vậy mới có tác dụng giáo dục, răn đe các Bị cáo và phòng ngừa chung cho toàn xã hội.

[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của các bị cáo:

- Tình tiết tăng nặng: Các bị cáo Lò Văn D, Lò Văn D1 và Quàng Văn Đ không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự.

- Tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các Bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình nên đều được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại Điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

- Về nhân thân:

+ Đối với Bị cáo Lò Văn D: Sinh ra và lớn lên tại xã Thanh Chăn, huyện ĐB, tỉnh Điện Biên và được gia đình nuôi dưỡng học hết lớp 09/12, nghỉ học ở nhà làm ruộng cùng gia đình.

Năm 2009 Bị cáo bị đưa đi cơ sở giáo dục Thanh Hà thời gian 24 tháng đến ngày 20/10/2011 Bị cáo chấp hành xong; Ngày 26/9/2016, Bị cáo bị TAND thành phố Điện Biên Phủ xử phạt 24 tháng tù về tội "Mua bán trái phép chất ma túy". Đến ngày 10/3/2018 chấp hành xong hình phạt tù trở về địa phương sinh sống. Bị cáo sử dụng ma túy từ năm 2007 cho đến ngày bị bắt. Bị cáo là người có nhân thân xấu.

Ngày 08/12/2020 bị cáo Lò Văn D bị Công an huyện ĐB bắt về hành vi mua bán trái phép chất ma túy, Cơ quan CSĐT- Công an huyện ĐB ra Quyết định khởi tố Bị can và áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam đối với Bị can theo quy định của pháp luật.

+ Đối với bị cáo Lò Văn D1: Sinh ra và lớn lên tại xã Thanh Yên, huyện ĐB, tỉnh Điện Biên và được gia đình nuôi dưỡng học hết lớp 10/12, nghỉ học ở nhà làm ruộng cùng gia đình. Đến năm 2015 chuyển vào làm ăn, sinh sống tại Bản X, xã P L, huyện ĐB, tỉnh Điện Biên. Bị cáo sử dụng ma túy từ năm 2019 cho đến ngày bị bắt.

+ Đối với bị cáo Quàng Văn Đ: Sinh ra và lớn lên tại xã Thanh Yên, huyện ĐB, tỉnh Điện Biên và được gia đình nuôi dưỡng học hết lớp 07/12, nghỉ học ở nhà làm ruộng cùng gia đình. Bị cáo sử dụng ma túy từ năm 2018 cho đến ngày bị bắt.

Ngày 05/12/2020 bị cáo Lò Văn D1, Quàng Văn Đ bị Công an huyện ĐB bắt quả tang về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, Cơ quan CSĐT- Công an huyện ĐB ra Quyết định khởi tố các Bị can và áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam đối với các Bị can theo quy định của pháp luật.

Việc đề nghị áp dụng hình phạt của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa đối với các Bị cáo là có căn cứ nên HĐXX cần chấp nhận.

Ngoài hình phạt chính, theo quy định tại khoản 5 Điều 249 và khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự quy định: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”; do đó các Bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của các Bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy các Bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, thu nhập từ nghề làm ruộng thấp, hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản đối với các Bị cáo.

[4] Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và điểm a, b khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy 0,37 gam Methamphetamine (đã trích 0,09 gam gửi giám định, vật chứng còn lại 0,28 gam); Tịch thu tiêu hủy 0,15 gam Heroine (đã trích 0,05 gam gửi giám định, vật chứng còn lại 0,1 gam);

Truy thu số tiền 250.000 đồng của bị cáo Lò Văn D do bán ma túy cho bị cáo D1 để nộp vào ngân sách Nhà nước;

Tịch thu bán sung ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA, màu đen loại bàn phím, không có sim thu của Lò Văn D do các Bị cáo dùng làm công cụ phạm tội.

Đối với chiếc xe máy biển kiểm soát 27B1-622.98 nhãn hiệu HONDA WAVE RSX, màu đỏ đen, xe cũ đã qua sử dụng mang tên chị Lường Thị Hồng; sinh năm 1982; địa chỉ: Bản C T, xã T Y, huyện ĐB, tỉnh Điện Biên. Qua xác minh và các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thể hiện việc D1 và Đ sử dụng xe làm phương tiện đi mua ma túy để sử dụng chị Hồng không biết nên. HĐXX xét thấy cần trả lại chiếc xe trên cho chủ sở hữu chị Lường Thị Hồng là phù hợp.

[5] Về các vấn đề khác:

Đối với người phụ nữ dân tộc Thái, khoảng 35 tuổi đã 02 lần bán ma túy cho Lò Văn D vào ngày 04/12/2020 và ngày 05/12/2020, do Lò Văn D không biết họ tên, địa chỉ nên cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện ĐB không có cơ sở để điều tra làm rõ. Vì vậy HĐXX không không xem xét xử lý.

Về sự vắng mặt của Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Lường Thị Hồng. Xét thấy Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã được triệu tập hợp lệ nhưng có đơn xin xét xử vắng mặt. Trong quá trình điều tra Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã có đầy đủ lời khai trong hồ sơ vụ án. Nên Hội đồng xét xử căn cứ Khoản 1 Điều 292 Bộ luật tố tụng hình sự, xét xử vắng mặt theo quy định của pháp luật.

[7] Về tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên Công an huyện ĐB; Viện kiểm sát nhân dân huyện ĐB, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa các Bị cáo, người có quyền lợi, ngĩa vụ liên qun không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[8] Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23, điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án buộc các bị cáo Lò Văn D, Quàng Văn Đ, mỗi người phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm; miễn 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Lò Văn D1.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Áp dụng: Điểm b khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Lò Văn D phạm tội: "Mua bán trái phép chất ma túy".

Xử phạt Bị cáo: 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ (08/12/2020).

* Áp dụng: Điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Quàng Văn Đ phạm tội: "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

Xử phạt Bị cáo: 01 (một) năm 09 (chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ (05/12/2020).

*Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Lò Văn D1 phạm tội: "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

Xử phạt Bị cáo: 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ (05/12/2020).

Không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với các Bị cáo.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1, khoản 2 Điều 47 Bộ luật hình sự và điểm a, b khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy gồm: 0,37 gam Methamphetamine (đã trích 0,09 gam gửi giám định, vật chứng còn lại 0,28 gam); 0,15 gam Heroine (đã trích 0,05 gam gửi giám định, vật chứng còn lại 0,1 gam);

- Tịch thu bán sung ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA; Model: 1280; IMEL: 359888190300014, màu đen, không có sim, không kiểm tra tình trạng hoạt động. Thu giữ của Lò Văn D.

- Trả lại cho chị Lường Thị Hồng 01 xe mô tô biển kiểm soát 27B1- 622.98 nhãn hiệu HONDA WAVE RSX, màu đỏ đen, số khung: RLHJA 3811GY078945, số máy: JA38E- 0184650, tình trạng xe cũ đã qua sử dụng, không kiểm tra máy móc bên trong.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 31/3/2021 giữa Công an huyện ĐB và Chi cục Thi hành án dân sự huyện ĐB, tỉnh Điện Biên).

- Truy thu số tiền 250.000 đồng của bị cáo Lò Văn D do bán ma túy cho bị cáo D1 để nộp vào ngân sách Nhà nước.

4. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23, điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án buộc các bị cáo Lò Văn D, Quàng Văn Đ, mỗi người phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm; miễn 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Lò Văn D1.

5. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự các Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo Bản án về những vấn đề liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

208
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 149/2021/HS-ST ngày 11/06/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy và tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:149/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Điện Biên - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về