Bản án 149/2019/HNGĐ-ST ngày 12/06/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN CẨM LỆ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 149/2019/HNGĐ-ST NGÀY 12/06/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON CHUNG

Ngày 12 tháng 6 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 45/2019/TLST-HNGĐ ngày 26 tháng 02 năm 2019 về việc Tranh chấp ly hôn, nuôi con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 16/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 10 tháng 5 năm 2019 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Lê Thị Lệ H, sinh năm 1978. Có mặt

Bị đơn: Anh Đặng Quang Th, sinh năm 1976. Vắng mặt

Cùng địa chỉ: Tổ 35, đường B, phường H, quận C, thành phố Đà Nẵng.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 21 tháng 2 năm 2019 và trong quá trình tố tụng, nguyên đơn Chị Lê Thị Lệ H trình bày:

Chị kết hôn với Anh Đặng Quang Th vào năm 1999, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Hòa Phát, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng theo giấy chứng nhận kết hôn số 49 quyển số 01 ngày 04 tháng 6 năm 1999, hôn nhân trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện.

Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống tại tổ 35, đường Bình Thái 4, phường Hòa Thọ Đông, quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng. Trong quá trình chung sống không hạnh phúc, nguyên nhân là do tính tình không hợp, vợ chồng bất đồng quan điểm sống, cthường xuyên xúc phạm danh dự của chị, không tôn trọng chị, đánh đập chị, chị đã nhiều lần nộp đơn xin ly hôn Anh Đặng Quang Th nhưng sau lại đó rút đơn để vợ chồng có cơ hội đoàn tụ, tuy nhiên đến nay anh Thvẫn không thay đổi. Nay chị xác định chị không còn thương yêu Anh Đặng Quang Th, cuộc sống chung không thể kéo dài. Vì vậy, chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn Anh Đặng Quang Th - Về con chung: chị xác nhận vợ chồng có 02 con chung tên: Đặng Thị Mai Ph, sinh ngày: 06/12/1999 và Đặng Thị Mai L, sinh ngày: 09/8/2006. Ly hôn chị có nguyện vọng được nhận nuôi con Đặng Thị Mai L, không yêu cầu Anh Đặng Quang Th cấp dưỡng nuôi con chung. Đối với con cđã trưởng thành tự nuôi sống được bản thân nên chị không có yêu cầu gì.

- Về tài sản chung: Chị Lê Thị Lệ H không yêu cầu Tòa án giải quyết - Về nợ chung: Chị Lê Thị Lệ H xác nhận vợ chồng không có nợ chung.

* Đối với bị đơn Anh Đặng Quang Th: Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành cấp tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng như: Thông báo thụ lý vụ án, Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải (2 lần), Quyết định đưa vụ án ra xét xử và Quyết định hoãn phiên tòa cho Anh Đặng Quang Th nhưng Anh Đặng Quang Th cố tình vắng mặt không đến Tòa làm việc mà không có lý do. Do đó Tòa án không tiến hành lấy lời khai cũng như không thể tiến hành mở phiên họp công khai chứng cứ và hòa giải được.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]Về thủ tục tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành cấp tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho bị đơn Anh Đặng Quang Th nhưng Anh Đặng Quang Th vắng mặt không có lý do tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải và tại phiên tòa sơ thẩm. Vì vậy, căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử xét xử vắng mặt Anh Đặng Quang Th.

[2]Về Nội dung tranh chấp:

[2.1]Về quan hệ hôn nhân:

Quan hệ hôn nhân giữa Chị Lê Thị Lệ H và Anh Đặng Quang Th được xác lập trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện vào năm 1999, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Hòa Phát, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng (cũ) Nay là UBND phường Hòa Phát, quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng và đã được cấp giấy chứng nhận kết hôn số 49, quyển số 01 ngày 04 tháng 6 năm 1999. Vì vậy, đây là hôn nhân hợp pháp được pháp luật công nhận và bảo vệ.

Chị Lê Thị Lệ H khởi kiện yêu cầu được ly hôn với Anh Đặng Quang Th với lý do: Chị không còn tình cảm, không còn thương yêu gì đối với Anh Đặng Quang Th vì tính tình không hợp, vợ chồng bất đồng quan điểm sống, Anh Đặng Quang Th thường xuyên xúc phạm danh dự của chị, không tôn trọng chị, đánh đập chị, chị đã nhiều lần nộp đơn ly hôn nhưng sau lại đó rút đơn để vợ chồng có cơ hội đoàn tụ, tuy nhiên đến nay Anh Đặng Quang Th vẫn không thay đổi. Nay chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn Anh Đặng Quang Th.

Đi với bị đơn Anh Đặng Quang Th đã nhận được các văn bản tố tụng hợp lệ của Tòa án nhưng anh không đến Tòa để hòa giải. Điều này chứng tỏ Anh Đặng Quang Th không muốn hàn gắn để xây dựng hạnh phúc gia đình.

Căn cứ Đơn xin xác nhận ngày 13 tháng 5 năm 2019 đã được chính quyền địa phương xác nhận có nội dung: Chị Lê Thị Lệ H và Anh Đặng Quang Th trong cuộc sống chung vợ chồng có mâu thuẫn, nguyên nhân là do tính tình không hợp.

HĐXX xét thấy: Anh Đặng Quang Th không có thiện chí để hàn gắn xây dựng hạnh phúc gia đình. Còn Chị Lê Thị Lệ H khai không còn yêu thương, quý trọng, chăm sóc giúp đỡ nhau, tình cảm vợ chồng không còn, không ai có trách nhiệm với ai làm cho cuộc hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, khả năng hàn gắn không còn nên cần áp dụng Điều 56 luật HNGĐ năm 2014 chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của Chị Lê Thị Lệ H, xử cho Chị Lê Thị Lệ H được ly hôn với Anh Đặng Quang Th.

[2.2]Về quan hệ con chung: Chị Lê Thị Lệ H xác nhận vợ chồng có 02 con chung Đặng Thị Mai Ph, sinh ngày: 06/12/1999 và con Đặng Thị Mai L, sinh ngày: 09/8/2006. Ly hôn, Chị Lê Thị Lệ H có nguyện vọng được trực tiếp nhận nuôi dưỡng con Đặng Thị Mai L không cầu Anh Đặng Quang Th cấp dưỡng nuôi con chung. Đối với con Mai Phđã trưởng thành nên chị không có yêu cầu gì.

Xét yêu cầu được nuôi con của Chị Lê Thị Lệ H thì thấy: Việc nuôi dạy con là trách nhiệm và nghĩa vụ của cha mẹ, hiện tại cháu Đặng Thị Mai L đang sống với mẹ, và sau khi bố mẹ ly hôn cháu cũng có nguyện vọng được sống với mẹ, cháu là bé gái nên cần bàn tay chăm sóc dạy dỗ chu đáo của người mẹ, mẹ hiện có thu nhập ổn định để nuôi con. Vì vậy, cần căn cứ vào các điều 58,81,82,83,84 luật HNGĐ năm 2014 xử giao con Đặng Thị Mai L, sinh ngày: 09/8/2006 cho Chị Lê Thị Lệ H trực tiếp nuôi dưỡng. Đối với cháu Đặng Thị Mai Ph đã trưởng thành tự nuôi sống được bản thân, Chị Lê Thị Lệ H không có yêu cầu gì nên HĐXX không đề cập giải quyết.

Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Lê Thị Lệ H không yêu cầu Đặng Quang Thắng cấp dưỡng nên HĐXX không đề cập đến .

[3] Về tài sản chung: Chị Lê Thị Lệ H không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[4] Về nợ chung: Chị Lê Thị Lệ H xác nhận không có nên HĐXX không đề cập đến.

[5] Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm Chị Lê Thị Lệ H phải chịu là 300.000 đồng.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các điều 56, 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân gia đình năm 2014; các điều 147,227,228, 266, 267,269271,273 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án;

Xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Chị Lê Thị Lệ H đối với Anh Đặng Quang Th về việc “tranh chấp ly hôn, nuôi con chung”.

Th.

1.Về quan hệ hôn nhân: cho ly hôn giữa Chị Lê Thị Lệ H và Anh Đặng Quang 2. Về quan hệ con chung: Giao con chung Đặng Thị Mai L, sinh ngày: 09/8/2006 cho Chị Lê Thị Lệ H trực tiếp nuôi dưỡng, Anh Đặng Quang Th không cấp dưỡng nuôi con. Đối với cháu Đặng Thị Mai Ph đã trưởng thành tự nuôi sống được bản thân, Chị Lê Thị Lệ H không có yêu cầu gì nên HĐXX không đề cập giải quyết.

Bên không nuôi con được quyền đi lại, thăm nom chăm sóc, giáo dục con chung không ai được quyền ngăn cản. Khi cần thiết vì lợi ích con chung các bên có quyền làm đơn xin thay đổi nuôi con hoặc mức cấp dưỡng nuôi con.

3.Về tài sản chung: Chị Lê Thị Lệ H không yêu cầu Tòa án giải quyết 4. Về nợ chung: Chị Lê Thị Lệ H xác nhận không có nên HĐXX không đề cập đến.

5.Về án phí: Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm phải chịu là 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) Chị Lê Thị Lệ H phải chịu, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị H đã nộp theo biên lai thu số 5605 ngày 26/02/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng. Chị Lê Thị Lệ H đã nộp đủ án phí hôn nhân gia đình.

6. Báo cho Chị Lê Thị Lệ H biết có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm hôm nay. Riêng Anh Đặng Quang Th vắng mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày Toà án niêm yết bản.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

201
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 149/2019/HNGĐ-ST ngày 12/06/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung

Số hiệu:149/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Cẩm Lệ - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 12/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về