Bản án 149/2018/HS-ST ngày 09/11/2018 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN TÂY HỒ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 149/2018/HS-ST NGÀY 09/11/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 09 tháng 11 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Tây Hồ, Thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 174/2018/HSST ngày 22 tháng 10 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 167/2018/QĐXXST- HS ngày 26 tháng 10 năm 2018 đối với:

Bị cáo Nguyễn Văn N, sinh năm 1989; HKTT: Xóm Đoàn K, phường Bạch H, thành phố V, tỉnh P; Chỗ ở: Lang thang; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: Không biết chữ; Dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt

Nam; con ông Nguyễn Văn Q (đã chết) và bà Mai Thị C; Vợ: Nguyễn Thị L; Con:

Có 01 con sinh năm 2018; Danh chỉ bản số 000000289 do công an quận Tây Hồ lập ngày 08/8/2018; Tiền án: Có 04 tiền án đã được xóa án tích; Tiền sự: Có 01 tiền sự đã hết thời hiệu.

Nhân thân:

- Bản án số 68/2008/HSST ngày 26/9/2008, Tòa án nhân dân (TAND) huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc xử phạt 09 tháng tù giam về tội trộm cắp tài sản. Chấp hành xong hình phạt ngày 11/04/2009, đã thi hành xong tiền án phí hình sự sơ thẩm ngày 17/12/2008.

- Bản án số 261/2009/HSST ngày 17/09/2009, TAND TP Việt Trì, tỉnh Phú Thọ xử phạt 06 tháng tù giam về tội trộm cắp tài sản. Chấp hành xong hình phạt ngày 21/12/2009, được miễn thi hành án khoản án phí hình sự sơ thẩm theo Quyết định đình chỉ số 64 ngày 04/7/2016.

- Bản án số 196/2010/HSST ngày 30/9/2010, TAND TP Việt Trì, tỉnh Phú Thọ xử phạt 18 tháng tù giam về tội trộm cắp tài sản. Chấp hành xong hình phạt ngày 09/12/2011, được miễn thi hành án khoản án phí hình sự sơ thẩm theo Quyết định đình chỉ số 63 ngày 04/7/2016. Về khoản tiền bồi thường dân sự qua kiểm tra thể hiện không có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án.

- Bản án số 164/2012/HSST ngày 19/7/2012, TAND TP Việt Trì, tỉnh Phú Thọ xử phạt 30 tháng tù giam về tội trộm cắp tài sản. Chấp hành xong hình phạtngày 13/8/2014, đã thi hành xong tiền án phí hình sự sơ thẩm ngày 06/11/2012.

- Ngày 12/12/2016, Công an thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên ra quyết định xử phạt hành chính về hành vi trộm cắp tài sản. Nguyễn Văn N đã thi hành theo niên lai số 2964155 ngày 12/12/2016.

Bị cáo bị bắt khẩn cấp ngày 04/8/2018, hiện đang bị tạm giam tại trại tạm giam số 1 Công an Thành phố Hà Nội, có mặt tại phiên tòa.

Người bị hại: Anh Dương Văn V, sinh năm 1998; HKTT và trú tại: Số 17B, ngách 32/43, AD, phường Y, quận T, TP H xin vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 09 giờ ngày 28/7/2018, Nguyễn Văn N đi bộ một mình quanh khu vực ngõ 32 AD, YP để mua đồ ăn. Khi đi ngang qua số nhà 17B ngách 32/43 AD, YP, N phát hiện trên bàn gần cửa ra vào ngôi nhà trên có 01 chiếc điện thoại. Quan sát xung quanh không thấy có người, N đi vào nhà lấy chiếc điện thoại cho vào túi quần rồi đi về nhà. Về nhà N kiểm tra thấy điện thoại có mật khẩu nên không mở được, N mang điện thoại vừa trộm cắp trên đến cửa hàng FPT Shop địa chỉ 7A YP,TH,H nói dối là điện thoại của mình, quên mật khẩu nên nhờ sửa để phá mật khẩu. Tại đây nhân viên cửa hàng hẹn N đến ngày 04/8/2018 quay lại lấy. Ngày 02/8/2018, anh Dương Văn V đến công an phường Yên Phụ trình báo về việc bị mất trộm 01 chiếc điện thoại Nokia 6 Master tại nhà tại số nhà 17B ngách 32/43 An Dương, phường Yên Phụ, quận Tây Hồ, Hà Nội. Ngày 04/8/2018, khi N quay lại lấy điện thoại trên thì Công an phường Yên Phụ yêu cầu về trụ sở làm việc. Vật chứng thu giữ gồm: 01 điện thoại di động Nokia 6 màu đen, imei1:356020085351888,imei2:356020085351896; 01 phiếu bảo hành dịch vụ số 873760.

Tại Kết luận định giá số 158/KL-HĐĐG ngày 24/8/2018 Hội đồng định giá tài sản tố tụng hình sự kết luận: 01 điện thoại di động Nokia6 trị giá: 3.500.000đồng.

Cáo trạng số 154/CT-VKS ngày 17/10/2018 của Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) quận Tây Hồ đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn N về tội “trộm cắp tài sản”theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của người bị hại, người liên quan, phù hợp với vật chứng thu giữ và tài liệu có trong hồ sơ vụ án.

Đại diện VKSND quận Tây Hồ kết luận vụ án: Giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX) áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự, Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Xử phạt bị cáo từ 15 (mười lăm) đến 21 (hai mươi mốt) tháng tù giam. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra công an quận Tây Hồ, Điều tra viên, VKSND quận Tây Hồ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến gì về quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung: Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 9 giờ ngày 28 tháng 7 năm 2018, tại số nhà 17B, ngách 32/43, AD,YP,TH,H Nguyễn Văn N đã có hành vi lén lút chiếm đoạt 01 điện thoại di động Nokia 6 màu đen của anh Dương Văn V có trị giá 3.500.000đ(ba triệu năm trăm nghìn đồng).

Hành vi của bị cáo đã phạm tội “trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 như lời luận tội của đại diện VKSND dân quận Tây Hồ là đúng.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác, gây mất trật tự trị an trong khu vực, gây mất lòng tin trong quần chúng nhân dân, bị cáo phạm tội do lỗi cố ý, mục đích tư lợi.

Khi lượng hình HĐXX xét bị cáo có nhân thân xấu, có 04 tiền án mặc dù đã được xóa án tích, 01 tiền sự mặc dù đã hết thời hiệu. Các tiền án, tiền sự mà bị cáo thực hiện đều về hành vi trộm cắp tài sản. Bị cáo không lấy đó làm bài học cho mình mà vẫn tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội cùng với hành vi mà bị cáo đã bị xét xử, cho thấy bị cáo là người coi thường pháp luật. Do vậy cần phải áp dụng mức hình phạt tương xứng, cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian đủ để giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

Xét tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tài sản bị cáo trộm cắp đã thu hồi trả lại cho người bị hại nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo không có nghề nghiệp và thu nhập nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[3] Về vật chứng vụ án: Qua xác minh xác định chiếc điện thoại trên là của anh V, ngày 30/9/2018, Cơ quan CSĐT Công an quận Tây Hồ ra quyết định xử lý vật chứng, trao trả chiếc điện thoại cho anh V, anh V đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bồi thường dân sự nên không xem xét.

[4]Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

Bị cáo, người bị hại có quyền kháng cáo bản án theo luật định. Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn N phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015.

- Căn cứ vào các Điều 331, 333, 337 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

- Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn N 12 (mười hai) tháng tù giam, thời hạn tù tính từ ngày 04/8/2018.

Bị cáo phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người bị hại có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

265
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 149/2018/HS-ST ngày 09/11/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:149/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Tây Hồ - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về