Bản án 148/2018/HSST ngày 23/07/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THANH HÓA

BẢN ÁN 148/2018/HSST NGÀY 23/07/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 23 tháng 7 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 238/2018/HSST ngày 08/6/2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 154/2018/QĐXXST- HS ngày 09 tháng 7 năm 2018 đối với bị cáo:

Phạm Văn S Sinh năm 1964; nơi ĐKHKTT: đường M, P. Đ, TP. T; nơi ở: đường H, phường Q, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: không; văn hóa: 7/10; nghề nghiệp: LĐTD; con ông Phạm Văn Q và bà Nguyễn Thị Q2; có vợ là Nguyễn Thị H và có 02 con, lớn sinh năm 1988, nhỏ sinh năm 1992; tiền án, tiền sự: không; nhân thân: năm 1988 bị TAND thị xã Thanh hóa xử phạt 18 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản XHCN; bị bắt tạm giữ, giam từ ngày 21/4/2018; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 12h00’ ngày 21/4/2018 Công an thành phố T làm nhiệm vụ tại khu vực đường K, phường Đ, thành phố T kiểm tra hành chính phát hiện Phạm Văn S đang cất giữ trong người 02 gói ni lông màu trắng, kích thước gói khoảng (3x5) cm, bên trong chứa các hạt tinh thể màu trắng, S khai nhận là ma túy đá mua để sử dụng.

Tại cơ quan điều tra S khai nhận gói ma túy trên là của S mua của một người đàn ông khoảng 30 tuổi không quen biết ở khu vực cổng đền nhà L, phố K, phường Đ, TP. T vào trưa cùng ngày với giá 4.000.000đ, để sử dụng nhưng chưa kịp sử dụng thì bị phát hiện, thu giữ.

Tại bản kết luận giám định số 863/MT-PC54 ngày 23/4/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa kết luận các hạt tinh thể màu trắng trong túi nilon thu của S là ma túy có tổng trọng lượng 6,690g, loại: Methamphetamine.

Tại bản cáo trạng số 148/CT-VKS ngày 06/6/2018 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thanh Hóa truy tố bị cáo Phạm Văn S về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 249 BLHS. Tại phiên tòa trong phần luận tội đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo như cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm g khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38 BLHS, xử phạt bị cáo mức hình phạt từ 5 năm đến 5 năm 6 tháng tù. Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định. Bị cáo nhận tội, không có ý kiến tranh luận, lời nói sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi phạm tội: Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận: Khoảng 12h00’ ngày 21/4/2018, tại khu vực đường K, phường Đ, thành phố T, khi bị cáo đang lưu giữ trong người 02 gói ni lông màu trắng, kích thước khoảng (3x5) cm, bên trong chứa các hạt tinh thể màu trắng, là ma túy, loại: Methamphetamine, có tổng trọng lượng là 6,690g bị cáo mua của một người không quen biết trước đó với mục đích để sử dụng thì bị công an kiểm tra, thu giữ.

Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hành vi nêu trên của bị cáo Phạm Văn S đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 249 BLHS, như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là đúng pháp luật.

[2]. Về tính chất vụ án, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ: Hành vi phạm tội của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, là nguyên nhân làm phát sinh nhiều loại tội phạm khác, làm suy thoái kinh tế và ảnh hưởng đến sự phát triển lành mạnh của con người. Vì vậy, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, cần được xử lý nghiêm mới có tác dụng giáo dục đối với bị cáo và có tính chất phòng ngừa chung.

Quá trình điều tra, xét xử bị cáo đã thành khẩn khai báo; bị cáo có bố là người tham gia kháng chiến, được thưởng Huân chương nên cần áp dụng điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 BLHS để giảm nhẹ một phần hình phạt. Căn cứ tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, cần áp dụng Điều 38 BLHS cách ly bị cáo khỏi cộng đồng xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục.

[3] Vật chứng: Số ma túy có trọng lượng 6,280g (tang vật còn lại sau giám định) là vật Nhà nước cấm lưu hành, cần áp dụng điểm a khoản 2 Điều 106 BLTTHS tịch thu tiêu hủy.

[4] Án phí: Bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định tại điều 136 BLTTHS; Điều 6, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Điểm g khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự. Điểm a khoản 2 Điều 106; Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự. Điều 6; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/ UBTVQH14.

Tuyên bố: Bị cáo Phạm Văn S phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt: Bị cáo Phạm Văn S 5 năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 21/4/2018.

Vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 6,280g Methamphetamine hiện đang tạm giữ theo biên bản giao nhận vật chứng số 148/THA ngày 18/6/2018 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Thanh Hóa

Án phí: Bị cáo phải nộp 200.000đ án phí HSST.

Bị cáo có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 7 và 9 luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

242
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 148/2018/HSST ngày 23/07/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:148/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/07/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về