Bản án 146/2021/HS-ST ngày 23/09/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SÔNG MÃ, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 146/2021/HS-ST NGÀY 23/09/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 23 tháng 9 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Sông Mã xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 152/2021/HSST ngày 31 tháng 8 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 149/2021/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 9 năm 2021 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Lò Văn H - Sinh năm 1986; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Bản A, xã K, huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Thái; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Trình độ H vấn: 10/12; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Chức vụ đoàn thể, đảng phái: Không; Con ông Lò Văn I và Lò Thị O; Có vợ là Cà Thị L và 03 con (Con lớn nhất sinh năm 2008, con nhỏ nhất sinh năm 2016); Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ 12/6/2021 cho đến nay có mặt tại phiên tòa.

2. Họ và tên: Lường Văn B - Sinh năm 1985; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Bản A, xã K, huyện S, tỉnh Sơn La; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Thái; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Trình độ H vấn: 6/12; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Chức vụ đoàn thể, đảng phái: Không; Con ông Lường Văn S và bà Lường Thị Y; Có vợ là Lò Thúy H và 02 con (Con lớn nhất sinh năm 2012, con nhỏ nhất sinh năm 2015); Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ 12/6/2021 cho đến nay có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Lò Thúy H, sinh năm 1987. Trú tại: A, xã K, huyện S, tỉnh Sơn La. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 18 giờ 00 phút, ngày 11/6/2021 tổ công tác Công an xã K phối hợp Công an xã M và Đội nghiệp vụ hải quan cửa khẩu K làm nhiệm vụ tại khu vực bản A, xã K phát hiện bắt quả tang Lường Văn B và Lò Văn H có hành vi cất giấu trái phép chất ma túy. Thu giữ tại lòng bàn tay trái của H có một gói nilon màu trắng bên trong có chứa 05 viên nén màu hồng (B và H khai nhận là Hồng phiến). Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ, niêm phong vật chứng. Ngoài ra còn thu giữ 01 xe mô tô hiệu Dream không biển kiểm soát.

Ngày 12/6/2021 tại Công an huyện Sông Mã đã tiến hành mở niêm phong, cân tịnh xác định khối lượng và trích mẫu gửi giám định. Kết quả: 05 viên nén màu hồng thu giữ nghi là Hồng phiến có khối lượng 0,51gam, trích 02 viên có khối lượng 0,20gam làm mẫu giám định ký hiệu H1; vật chứng còn lại 03 viên có khối lượng 0,31gam ký hiệu H2.

Kết luận giám định chất ma túy số 1135 ngày 17/6/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: “Mẫu gửi giám định ký hiệu H1 là ma túy; loại Methamphetamine, khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,20gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,51gam loại Methamphetamine”.

Quá trình điều tra các bị cáo khai nhận: Khoảng 17 giờ ngày 11/6/2021 sau khi H và B làm thuê công việc chăm sóc vườn cây trở về nhà, trên đường về B điều khiển xe mô tô hiệu Dream không biển kiểm soát chở H thì H rủ B góp tiền để tìm mua Hồng phiến mục đích sử dụng thì được B đồng ý và đưa cho H 03 tờ mệnh giá 10.000đ; H cũng bỏ ra 30.000đ. Sau đó B điều khiển xe chở H đến bản L, xã K do đường nhỏ không đi được xe nên H xuống xe đi bộ một mình để tìm mua ma túy, còn B đứng đợi ở xe. H đi được một đoạn thì gặp một người đàn ông dân tộc Thái không quen biết đang đi bộ ngược chiều, qua nói chuyện H hỏi mua 60.000đ Hồng phiến thì được người đàn ông bán cho gói nilon màu trắng bên trong chứa 05 viên hồng phiến. Mua được ma túy, H cầm ở lòng bàn tay trái rồi quay lại chỗ B đứng đợi, đến nơi H bảo B đã mua được ma túy rồi ngồi phía sau xe B điều khiển ra về. Khi đến đầu A, xã K, huyện S thì bị tổ công tác làm nhiệm vụ phát hiện bắt quả tang, thu giữ toàn bộ vật chứng nêu trên.

Do có hành vi nêu trên tại bản Cáo trạng số 113/CT-VKS ngày 30 tháng 8 năm 2021 Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã đã truy tố ra trước Toà án nhân dân huyện Sông Mã để xét xử Lường Văn B, Lò Văn H về tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà kiểm sát viên giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố các bị cáo phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 58 Bộ luật Hình sự xử phạt Lò Văn H từ 20 – 26 tháng tù, Lường Văn B từ 18 – 24 tháng tù, không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo. Xử lý vật chứng: tịch thu tiêu hủy ma túy và vật chứng không có gì trị sử dụng, trả lại xe mô tô cho người có quyền, nghĩa vụ liên quan. Buộc bị cáo B phải chịu án phí hình sự sơ thẩm, miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo H và tuyên quyền kháng cáo cho các bị cáo, người có quyền, nghĩa vụ liên quan.

Tại phiên tòa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày: chị là vợ của bị cáo Lường Văn B, chiếc xe mô tô không có BKS bị thu giữ trong vụ án là tài sản chung của gia đình chị, do vợ chồng chị mua lại ở cửa hàng xe máy cũ với giá 3.500.000đ. Khi bị cáo B sử dụng xe đi mua ma túy chị không biết, chị đề nghị HĐXX trả lại cho chị chiếc xe.

Tại phiên tòa các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình; Khi được nói lời sau cùng các bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định của cơ quan, người tiến hành tố tụng: Cơ quan điều tra Công an huyện Sông Mã, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo, người có quyền, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do vậy các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về các chứng cứ xác định tội danh: Hành vi phạm tội của các bị cáo được chứng minh bằng các căn cứ sau:

- Biên bản bắt người phạm tội quả tang lập vào hồi 18 giờ 00 phút, ngày 11/6/2021, bắt quả tang Lò Văn H và Lường Văn B có hành vi cất giấu 05 viên nén màu hồng.

- Kết luận giám định số 1135 ngày 17/6/2021của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: “… Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,51 gam loại Methamphetamine”.

- Lời khai các bị cáo về việc đều thường xuyên sử dụng ma túy từ đầu năm 2021, nên ngày 11/6/2021 đã cùng nhau đi mua góp mỗi người 30.000đ đi mua được 05 viên hồng phiến của một người đàn ông không quen biết mục đích để sử dụng, khi đang trên đường vận chuyển đem về để sử dụng thì bị phát hiện bắt quả tang và thu giữ vật chứng.

- Lời khai nhận tội của các bị cáo về thời gian địa điểm, diễn biến của hành vi phạm tội tại phiên tòa phù hợp với các lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Các bị cáo không có thay đổi, bổ sung gì về lời khai làm thay đổi nội dung vụ án và khẳng định việc khai báo tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa là hoàn toàn tự nguyện và đúng với sự việc đã thực hiện.

Như vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã truy tố các bị cáo về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là đúng quy định của pháp luật.

Từ những căn cứ nêu trên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Ngày 11/6/2021 các bị cáo Lò Văn H, Lường Văn B đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,51 gam Methamphetamine mục đích để sử dụng thì bị phát hiện bắt giữ. Hành vi các bị cáo thực hiện đã phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

[3] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội:

Là vụ án có đồng phạm. Trong đó bị cáo H là người khởi xướng, rủ rê bị cáo B, đồng thời là người trực tiếp thực hiện hành vi thỏa thuận giá cả, trao đổi việc mua ma túy từ người bán, bị cáo B sau khi tiếp nhận ý chí từ bị cáo H đã đóng góp một nửa số tiền dùng để mua ma túy và là người có phương tiện, sử dụng phương tiện cùng bị cáo B đi tìm mua ma túy. Do đó, bị cáo H giữ vai trò chính, chủ yếu trong vụ án nên phải chịu mức án cao hơn bị cáo B, bị cáo B giữ vai trò là đồng phạm giúp sức tích cực.

Hành vi phạm tội của các bị cáo là nghiêm trọng, các bị cáo nhận thức được việc Tàng trữ chất ma tuý là vi phạm pháp luật đã bất chấp pháp luật cố tình thực hiện tội phạm, hành vi phạm tội của các bị cáo đã xâm phạm chế độ độc quyền quản lý các chất ma tuý của Nhà nước, xâm phạm trật tự an toàn xã hội, làm ảnh hưởng đến trật tự trị an ở địa phương, là mầm mống phát sinh các loại tội phạm khác, gây bức xúc trong xã hội.

[4] Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo: Về tình tiết giảm nhẹ: Tại phiên toà và tại cơ quan điều tra các bị cáo đã tự nguyện khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Do vậy, cần có một mức án tương xứng với tính chất và mức độ của hành vi phạm tội nhằm giáo dục các bị cáo thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật, và cũng đảm bảo biện pháp răn đe, phòng ngừa chung, thực hiện nhiệm vụ đấu tranh phòng chống tệ nạn ma tuý tại địa phương.

[5] Về hình phạt bổ sung: Cơ quan điều tra đã làm rõ các bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, không có tài sản gì có giá trị vì vậy Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

[6] Về vấn đề khác có liên quan trong vụ án:

Đối với người đàn ông dân tộc Thái, bị cáo H khai đã bán ma túy cho bị cáo, nB bị cáo khai không biết tên và địa chỉ cụ thể nên CQCSĐT không mở rộng điều tra vụ án là có căn cứ chấp nhận.

[7] Về vật chứng vụ án:

Đối với phong bì niêm phong vật chứng ban đầu, mảnh nilon màu trắng và số ma túy còn lại sau khi trừ đi mẫu gửi giám định là những vật không có giá trị sử dụng và vật Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành cần tịch thu tiêu hủy. Đối với 01 xe mô tô không có BKS xác định là tài sản chung hợp pháp của vợ chồng bị cáo B, khi bị cáo B sử dụng xe vào việc đi mua ma túy vợ bị cáo không hay biết nên cần trả lại cho vợ bị cáo.

[8] Về án phí: Buộc bị cáo Lường Văn B phải chịu án phí theo quy định chung. Gia đình bị cáo Lò Văn H thuộc hộ cận nghèo nên được miễn án phí theo quy định.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

1- Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 58 Bộ luật Hình sự; Khoản 1 Điều 329 Bộ luật tố tụng Hình sự:

Tuyên bố các bị cáo Lò Văn H, Lường Văn B phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

- Xử phạt bị cáo Lò Văn H 20 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 12/6/2021.

- Xử phạt bị cáo Lường Văn B 18 tháng tù. Thời hạn thụ hình tính từ ngày 12/6/2021.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

Tiếp tục tạm giam các bị cáo để đảm bảo cho việc thi hành án, thời hạn tạm giam là 45 ngày kể từ ngày tuyên án (23/9/2021).

2- Về vật chứng vụ án: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; Các điểm a, c khoản 2, khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự:

Tịch thu tiêu hủy: 0,31 gam Methamphetamine được đựng trong 01 túi nilon màu trắng, 01 mảnh nilon màu trắng, 01 phong bì thư niêm phong vật chứng ban đầu, tất cả được đựng trong 01 phong bì đã niêm phong đúng quy định. Trên giấy niêm phong ở mặt sau có mã số 046391.

Trả lại cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: 01 xe mô tô, loại xe Dream, màu nâu, không có biển kiểm soát, số khung trùng số máy 009879.

Theo Quyết định chuyển vật chứng số 112 ngày 30/8/2021 của VKSND huyện Sông Mã và theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 01/9/2021 giữa Công an và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Sông Mã.

3- Về án phí:

Căn cứ Điều 136 BLTTHS; Các Điều 21, 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội: Buộc các bị cáo Lường Văn B phải chịu 200.000đ (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội: Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Lò Văn H.

Các bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 23/9/2021).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

160
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 146/2021/HS-ST ngày 23/09/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:146/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sông Mã - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về