Bản án 146/2021/HS-PT ngày 13/04/2021 về tội giết người

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI

BẢN ÁN 146/2021/HS-PT NGÀY 13/04/2021 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Ngày 13 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hưng Yên, Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội mở phiên tòa xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 1042/2020/TLPT-HS ngày 16 tháng 11 năm 2020 do có kháng cáo của các bị cáo và đại diện của người bị hại đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 106/2020/HS-ST ngày 28/09/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Hưng Yên.

Các bị cáo có kháng cáo, bị kháng cáo:

1. Mai Xuân T, sinh năm 1968; Giới tính: Nam; Tên gọi khác: Mai Sinh T1 (C); Nơi cư trú: Thôn Bình D, xã Tân D1, huyện Khoái C1, tỉnh Hưng Yên; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 7/10; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Con ông: Mai Sinh T2 (chết) và bà Trần Thị V1; Vợ: Nguyễn Thị H1 và có 02 con (con lớn sinh năm 1988, con nhỏ sinh năm 1991); Tiền án, tiền sự: Chưa có; Bị cáo có thời gian phục vụ trong quân đội; Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hưng Yên từ ngày 16/3/2020; Có mặt tại phiên tòa.

2. Mai Sinh T3 (con của bị cáo T4), sinh năm 1991; Giới tính: Nam; Tên gọi khác: Không; Nơi cư trú: Thôn Bình D, xã Tân D1, huyện Khoái C1, tỉnh Hưng Yên; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 10/12; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Con ông: Mai Xuân T4 và bà Nguyễn Thị H1 (gđ có 02 anh em, bị cáo là con út); Vợ: Đỗ Thị H1, sinh năm 1992; Có 02 con (con lớn sinh năm 2013, con nhỏ sinh năm 2017); Tiền án, tiền sự: Chưa có; Bị cáo bị bắt tạm giữ, giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hưng Yên từ ngày 17/3/2020; Có mặt tại phiên tòa.

Người bị hại trong vụ án: Anh Hoa Văn Đ, sinh năm 1993 (đã chết).

Đại diện của người bị hại: Bà Vũ Thị M, sinh năm 1963; địa chỉ: thôn Bãi S 2, xã Tân D1, huyện Khoái C1, tỉnh Hưng Yên và chị Hoa Thị N, sinh năm 1987, trú tại xã Minh C1, huyện Yên M1, tỉnh Hưng Yên, có mặt tại phiên tòa.

Luật sư bào chữa cho bị cáo Mai Xuân T4 và Mai Sinh T3: Luật sư Nguyễn Khắc A1 thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Hưng Yên, có mặt tại phiên tòa.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bà Vũ Thị M là người đại diện hợp pháp của người bị hại: Ông Nguyễn Ánh T5 và bà Nguyễn Thị H – Luật sư Văn phòng luật sư Nguyễn A2 thuộc Đoàn luật sư thành phố Hà Nội; Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa phúc thẩm thì nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bà Nguyễn Thị H1 sinh năm 1968 ở Thôn Bình D, xã Tân D1, huyện Khoái C1 sử dụng khu đất hành lang giao thông đường 379 do Ủy ban nhân dân xã Tân D1 quản lý để trồng cây.

Ngày 10/02/2020, bà H1 phát hiện có 25 cây nhãn trên khu đất bị kẻ gian cưa đổ nên đã trình báo chính quyền địa phương. Ngày 20/02/2020, anh Lê Tiến L sinh năm 1988 ở thôn Bãi S 3, xã Tân D1, huyện Khoái C1 thuê xe ô tô chở cát đổ vào khu đất trống thuộc hành lang giao thông đường 379 ở bên cạnh khu đất của gia đình bà H1. Trong khi đổ cát đã làm tràn sang một phần đất của bà H1, gia đình bà H1 đã ngăn cản không cho anh L đổ cát dẫn đến hai bên to tiếng cãi nhau nên đã bị Ủy ban nhân dân xã Tân D1 lập biên bản vi phạm hành chính đối với bà H1 và anh L về hành vi lấn chiếm đất hành lang giao thông do Ủy ban nhân dân xã quản lý, nhưng bà H1 không chịu ký vào biên bản.

Khoảng 17 giờ ngày 16/3/2020, anh L nhờ anh Phan Văn L1 sinh năm 1982 ở thôn Quảng U, xã Minh C1, huyện Yên M1, điều khiển xe mô tô chở anh L đến thửa đất trên, thấy bà H1 trồng bưởi trên đống cát anh L đã đổ hôm trước nên giữa anh L và bà H1 xảy ra xô xát cãi nhau. Bà H1 gọi điện thoại cho con trai là Mai Sinh T3 đến, sau đó bà H1 và T3 đã xô xát đánh nhau với anh L. Trong lúc mọi người đánh nhau thì anh L1 dùng điện thoại quay lại sự việc. Anh L bỏ chạy ra đường 379 thì anh L1 chở anh L đến ngã tư quán Cà thuộc xã Tân D1. Tại đây, anh L mượn điện thoại của anh L1 gọi điện cho anh Hoa Văn Đ sinh năm 1993 ở thôn Bãi S 2, xã Tân D1 để nhờ anh Đ chở L đến Uỷ ban nhân dân xã Tân D1 trình báo sự việc (anh Đ thuộc diện đối tượng quản lý của lực lượng Công an). Khoảng 15 phút sau anh Đ điều khiển xe ô tô nhãn hiệu KIA CERATO màu trắng (BKS 89A - 125.17) mượn của anh Nguyễn Đắc Trọng sinh năm 1992 ở thôn Bãi S 2, xã Tân D1 đến đón anh L1 và anh L, anh Đ mặc áo khoác màu đen, trong túi áo khoác có 60.000.000đ. Trên đường đi anh L xuống xe, anh Đ tiếp tục chở anh L1 đến Uỷ ban nhân dân xã Tân D1 để trình báo sự việc do anh L nhờ. Cùng thời điểm này, Mai Xuân T4 sinh năm 1968 ở Thôn Bình D, xã Tân D1 là chồng bà H1 đang ở cửa hàng bán xăng dầu “T4 Hiền” của gia đình ở Thôn Bình D, xã Tân D1 nhận được tin về vụ việc xô xát tại khu đất trồng bưởi của gia đình nên đã đi vào bếp của cửa hàng lấy 01 con dao, loại dao bầu dài 28,5 cm lưỡi dao bằng kim loại dài 18 cm, bản rộng nhất của lưỡi dao rộng 05 cm, chuôi dao bằng gỗ dài 10,5cm rồi bọc con dao vào 01 chiếc ống quần bằng vải màu đen thủng hai đầu và giắt vào cạp quần phía trước. T4 điều khiển xe mô tô đi đến khu đất trồng bưởi, lúc này bà H1 đã đi về. Sau đó T4, T3 và chị Đỗ Thị H1 là vợ T3 đi đến nhà anh Nguyễn Đình H2 sinh năm 1978 ở cùng thôn là em ruột bà H1 mượn 01 chiếc xe ô tô nhãn hiệu Kia Morning màu trắng biển số 89A-096.71, đăng ký xe mang tên chị Nguyễn Thị N là vợ anh H2. T3 điều khiển xe ôtô chở T4 và chị H1 đi đến trụ sở Uỷ ban nhân dân xã Tân D1 để đề nghị giải quyết sự việc trên thì thấy anh Đ và anh L1 đang đứng trước hành lang gần cửa phòng làm việc của Ban công an xã. T4 chửi anh Đ, thấy vậy anh Đ nói “T3 ơi, bố mày chửi tao này” và dùng tay phải chỉ vào người T4 nói “Mà tao có làm gì mày đâu? Mày đừng chửi tao, mày già mày đừng mất nết, tao làm gì mày mà mày chửi tao”, T4 trả lời “Tao chửi gì mày” anh Đ lại chửi “Ơ địt mẹ cái thằng già này, mày chửi tao á, địt mẹ mày chửi tao á” rồi dùng tay trái tát một nhát vào mặt T4 làm rơi điếu thuốc T4 đang ngậm trên miệng, đồng thời anh Đ tiếp tục chửi “Địt mẹ mày”, lúc này chị H1 đẩy T4 ra, còn T3 xông vào chửi “Địt con mẹ mày” rồi dùng tay phải đấm liên tiếp 3 phát vào người anh Đ, anh Đ cũng dùng tay đấm lại T3, cùng lúc này T4 dùng tay phải rút con dao nhọn giắt ở cạp quần ra đâm liên tiếp hai nhát vào vùng ngực và vùng thắt lưng bên trái của anh Đ làm anh Đ bị ngã, T3 tiếp tục dùng tay phải đấm với theo vào người anh Đ, chị H1 ôm T3 để can ngăn. Anh Đ vùng dậy bỏ chạy vào trong khu vực lán để xe thì T4 cầm dao chạy đuổi theo, vừa chạy vừa nói “Mày chán sống à, mày chán sống à con ơi”, lúc này T3 và H1 cũng đi theo sau. Anh Đ chạy vào đến cuối hành lang thì bị ngã, T4 tiếp tục hô “Mày chán sống rồi, mày chán sống rồi con ơi”, còn T3 dùng hai tay túm vào áo và đẩy anh Đ vào sát tường, anh Đ vùng bỏ chạy ra phía ngoài, T3 vẫn túm vào áo khoác của anh Đ đang mặc trên người làm chiếc áo khoác bị tuột ra, rơi xuống, anh Đ bỏ chạy ra phía ngoài cổng trụ sở Ủy ban nhân dân xã Tân D1 và gục ngã tại cửa nhà anh Nguyễn Văn T5. Anh Đ được đưa đi cấp cứu nhưng do vết thương quá nặng, nên anh đã tử vong.

Tại Bản kết luận giám định pháp y về tử thi số 48/GĐPY-PC09 ngày 20/5/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hưng Yên, kết luận: Nguyên nhân chết của anh Hoa Văn Đ là do mất máu cấp không hồi phục do vết thương thấu ngực và bụng làm rách nhu mô phổi, rách gan, rách nách, rách thận trái. Cơ chế hình thành vết thương:

- Vết rách da vùng ngực do vật sắc nhọn gây ra.

- Vết rách da vùng thắt lưng trái do vật sắc nhọn gây ra.

- Vết thương làm đứt đầu xương sườn số 6 bên phải và rách khoang liên sườn số 5, 6 bên phải do vật sắc nhọn gây ra.

- Vết rách thùy giữa phổi phải do vật sắc nhọn gây ra.

- Vết rách nhu mô gan phải do vật sắc nhọn gây ra.

- Vết thương đứt cơ liên sườn tại khoang liên sườn số 11, 12, đứt xương sườn số 12 do vật sắc nhọn gây ra.

- Vết rách nhu mô nách do vật sắc nhọn gây ra.

- Vết rách nhu mô thận trái do vật sắc nhọn gây ra.

- Các vết thương sây sát da còn lại trên người anh Hoa Văn Đ do vật tày gây ra.

Tại Bản kết luận giám định số 1575/C09-TT3 ngày 29/4/2020 của Viện khoa học hình sự - Bộ Công an, kết luận: Trên chiếc áo và con dao (thu giữ của T4) gửi giám định có bám dính máu của Hoa Văn Đ; mẫu nghi máu thu tại hiện T3 ký hiệu M3 là máu của Hoa Văn Đ.

Bản kết luận giám định số 2349/C09-P6 ngày 04/6/2020 của Viện khoa học hình sự - Bộ Công an, kết luận: Không tìm thấy dấu vết cắt ghép, chỉnh sửa nội dung âm T4 và hình ảnh tệp video gửi giám định; dịch nội dung cuộc hội thoại, trích xuất 21 hình ảnh trong các tệp video có tên “Video1.mp4” và “Video2.mp4”, chi tiết trong bản dịch và bản ảnh gửi kèm theo.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 106/2020/HS-ST ngày 28 tháng 9 năm 2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Hưng Yên đã tuyên bố các bị cáo Mai Xuân T4 (tên gọi khác: Mai Sinh T1 (C)) và Mai Sinh T3 đều phạm tội “Giết người”.

Áp dụng: điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 17; Điều 58 của Bộ luật hình sự đối với các bị cáo Mai Xuân T4 và Mai Sinh T3. Áp dụng thêm Điều 54 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Mai Sinh T3.

Xử phạt bị cáo Mai Xuân T4 16 năm 06 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 16/3/2020.

Xử phạt bị cáo Mai Sinh T3 08 năm tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 17/3/2020.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí và thông báo quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm: Ngày 06/10/2020, bị cáo Mai Sinh T3 có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt tù.

Ngày 07/10/2020, bị cáo Mai Xuân T4 có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt tù.

Ngày 12/10/2020, đại diện hợp pháp của bị hại do bà Vũ Thị M (mẹ của bị hại) có đơn kháng cáo: Đề nghị xử tăng mức hình phạt tù đối với các bị cáo và tăng mức bồi thường cho bị hại.

Tại phiên tòa phúc thẩm: Các bị cáo vẫn giữ nguyên nội dung đơn kháng cáo, thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung bản án sơ thẩm đã quy kết đối với các bị cáo, các bị cáo xin được giảm nhẹ vì Tòa án cấp sơ thẩm xử quá nặng.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội có quan điểm: Sau khi kiểm tra tính có căn cứ pháp luật của bản án sơ thẩm thì đã khẳng định Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá khách quan, đầy đủ và đúng pháp luật, cụ thể là đã xử phạt các bị cáo mức hình phạt phù hợp cũng như về mức bồi thường cho bị hại; do đó, đề nghị Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm không chấp nhận nội dung kháng cáo xin giảm nhẹ của các bị cáo và nội dung kháng cáo của đại diện người bị hại đề nghị tăng mức hình phạt tù và tăng cả về phần bồi thường, cũng như quan điểm của luật sư bào chữa cho bị cáo và luật sư bảo vệ quyền lợi cho đại diện người bị hại, để giữ nguyên bản án sơ thẩm đã xét xử đối với các bị cáo.

Người bào chữa cho hai bị cáo Mai Xuân T4 và Mai Sinh T3: Luật sư phân tích nguyên nhân xảy ra vụ án là do gia đình bị cáo quá bức xúc về việc bị chặt phá, hủy hoại 25 cây nhãn, tiếp đến còn bị đổ đất lấn sang đất nhà bị cáo và còn có hành vi xô xát với gia đình bị cáo nữa. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử Tòa án cấp phúc thẩm giảm nhẹ mức hình phạt cho các bị cáo để cho công bằng với hành vi phạm tội của các bị cáo.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đại diện hợp pháp của người bị hại: Sau khi luật sư phân tích đánh giá tính chất, mức độ lỗi của các bên và hậu quả vụ án xảy ra đã cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm đánh giá chưa công bằng, khách quan vụ án nên đã xử phạt các bị cáo mức hình phạt còn quá nhẹ và buộc các bị cáo bồi thường cho gia đình bị hại còn chưa thỏa đáng. Từ đó, đề nghị phải xử tăng mức hình phạt tù của bị cáo Mai Xuân T4 lên tối thiểu phải 20 năm tù, đối với bị cáo Mai Sinh T3thì tối thiểu phải khởi điểm của khung hình phạt là 12 năm tù và buộc các bị cáo phải bồi thường cho bị hại tương ứng với 100 tháng lương tối thiểu.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng làm rõ tại phiên tòa phúc thẩm, Hội đồng xét xử nhận định:

Về tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án thì các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng là Điều tra viên, Kiểm sát viên và Thẩm phán đã tuân thủ theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Vì vậy, mọi quyết định và hành vi tố tụng có trong hồ sơ vụ án của các cơ quan tiến hành tố tụng và của những người tiến hành tố tụng đều hợp lệ, phù hợp với quy định của pháp luật, nên không có ai thắc mắc, khiếu nại gì.

Về nội dung: Lời khai của các bị cáo Mai Xuân T4, Mai Sinh T3 tại phiên tòa phúc thẩm phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án và tại phiên tòa sơ thẩm. Như vậy, đã có đủ căn cứ pháp luật để kết luận: Khoảng 17h10 phút ngày 16/3/2020 tại khu vực hành lang, gần cửa phòng làm việc của Ban công an xã Tân D1, huyện Khoái C1, tỉnh Hưng Yên, chỉ vì mâu thuẫn nhỏ nhặt giữa Mai Sinh T3, Mai Xuân T4 và anh Hoa Văn Đ mà anh Đ đã dùng tay tát vào mặt T4 một phát, liền sau đó T3 lao vào đánh anh Đỏ, còn T4 thì dùng con dao dài 28,5cm, lưỡi dao bằng kim loại sắc nhọn dài 18 cm, đâm hai nhát vào người anh Hoa Văn Đ, dẫn đến hậu quả là anh Đ bị tử vong. Do Mai Xuân T4 và Mai Sinh T3 có hành vi phạm tội giết người như trên nên bị Tòa án nhân dân tỉnh Hưng Yên kết án về tội “Giết người” theo quy định tại điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật. Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo cũng đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình và không có ý kiến gì khác về tội danh mà chỉ đề nghị xin được giảm nhẹ mức hình phạt tù.

Xét nội dung đơn kháng cáo xin giảm nhẹ mức hình phạt tù của các bị cáo và nội dung đơn kháng cáo đề nghị tăng mức hình phạt tù và tăng mức bồi thường của đại diện hợp pháp của người bị hại, Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm thấy: Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo tiếp tục thành khẩn khai báo và tỏ ra ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, các bị cáo chỉ xin giảm nhẹ mà không có thắc mắc gì khác, Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm thấy: Nguyên nhân xảy ra vụ án có một phần bắt nguồn từ việc tranh chấp đất đai, cụ thể là sau khi gia đình bị cáo bị người khác chặt hạ 25 cây nhãn, tiếp đến thì anh Lê Tiến L đổ đất cát tràn sang cả phần đất của gia đình bị cáo, dẫn đến giữa anh L với chị Hiền (vợ của bị cáo T4) xảy ra xô xát, cãi chửi nhau và sau đó anh L đã gọi điện cho Hoa Văn Đ là bạn đến để cầu cứu. Khi anh Đ đến thì giữa anh Đ với T4 (chồng chị Hiền) lời qua tiếng lại. Vì anh Đ là đối tượng đang bị cơ quan Công an theo dõi và được anh L cầu cứu gọi đến, chứng tỏ không phải vừa nên khi gặp nhau là hai bên xảy ra xô xát dẫn đến Mai Xuân T4 sử dụng dao nhọn đâm anh Đ làm anh Đ tử vong.

Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm thấy Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét, đánh giá tương đối khách quan, toàn diện và đầy đủ các tình tiết, nội dung vụ án, cũng như nguyên nhân xảy ra vụ án, mức độ lỗi giữa các bị cáo và người bị hại, vì trong vụ án này thì người bị hại là anh Hoa Văn Đ cũng như người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh Lê Tiến L có phần lỗi. Tuy nhiên, xét mức hình phạt tù của bị cáo T4 là còn có phần nhẹ nên cần phải sửa án sơ thẩm để tăng một phần hình phạt tù đối với bị cáo T4; còn đối với Mai Sinh T3 thì Hội đồng thấy mức hình phạt 08 năm tù đã là phù hợp với quy định của pháp luật, chứ không phải là quá nặng như nội dung kháng cáo của bị cáo hoặc còn quá nhẹ như kháng cáo của đại diện hợp pháp người bị hại. Vì vậy, Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm không có căn cứ để chấp nhận nội dung kháng cáo xin giảm nhẹ của bị cáo T3, cũng như không có căn cứ pháp luật để chấp nhận nội dung đơn kháng cáo của đại diện hợp pháp của người bị hại để tăng mức hình phạt tù đối với bị cáo T3, mà cần giữ nguyên như quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm vì T3 không trực tiếp đâm anh Đ và T3 là con của bị cáo T4 nên đóng vai trò thứ yếu, không đáng kể.

Về phần bồi thường thiệt hại thì Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm thấy: Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá, tính toán đầy đủ và đã đảm bảo quyền lợi cho gia đình bị hại, nên không có căn cứ để buộc các bị cáo phải bồi thường thêm được nữa.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm. Vì các lẽ trên, Căn cứ các Điều 355, 356 và 357 Bộ luật tố tụng hình sự 2015

QUYẾT ĐỊNH

1. Không chấp nhận nội dung đơn kháng cáo xin giảm nhẹ mức hình phạt tù của các bị cáo Mai Xuân T4 và Mai Sinh T3; Chấp nhận một phần nội dung đơn kháng cáo của đại diện hợp pháp của người bị hại về đề nghị tăng mức hình phạt tù đối với bị cáo, để sửa bản án hình sự sơ thẩm số 109/2020/HSST ngày 29/9/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Hưng Yên về phần hình phạt tù đối với bị cáo Mai Xuân T4. Cụ thể như sau:

Tuyên bố: Các bị cáo Mai Xuân T4 và Mai Sinh T3 đều phạm tội “Giết người”.

Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; các điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 38; Điều 17 và Điều 58 Bộ luật hình sự (riêng bị cáo T3 được áp dụng thêm Điều 54 Bộ luật hình sự):

Xử phạt bị cáo Mai Xuân T4 18 (mười tám) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù của bị cáo được tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, giam 16/3/2020.

Xử phạt bị cáo Mai Sinh T3 08 (tám) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù của bị cáo được tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, giam 17/3/2020.

2. Án phí: Bị cáo Mai Xuân T4 và bị cáo Mai Sinh T3 mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án hình sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

258
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 146/2021/HS-PT ngày 13/04/2021 về tội giết người

Số hiệu:146/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về