Bản án 146/2018/HS-ST ngày 27/11/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TUYÊN QUANG, TỈNH TUYÊN QUANG

BẢN ÁN 146/2018/HS-ST NGÀY 27/11/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 27 tháng 11 năm 2018, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang mở phiên tòa công khai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 140/2018/TLST-HS ngày 12 tháng 11 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 142/2018/QĐXXST-HS ngày 14/11/2018, đối với bị cáo:

NGUYỄN NGỌC L, sinh ngày 21/8/1993, tại thành phố T. Nơi cư trú: Tổ 12, phường P, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; con ông Nguyễn Đăng K và bà Bùi Thị V; vợ, con: Chưa có; tiền án: Không;

Tiền sự:

- Ngày 06/3/2018 Công an phường T, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang xử phạt vi phạm hành chính (phạt 1.000.000 đồng) về hành vi Sử dụng trái phép chất ma túy;

- Ngày 16/5/2018 Ủy ban nhân dân phường P, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang áp dụng biện pháp giáo dục tại phường, thời hạn 03 tháng kể từ ngày 16/5/2018;

Nhân thân:

- Ngày 28/12/2012 Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang xử phạt 04 tháng tù về tội Cố ý gây thương tích (Bản án số 136/2012/HSST);

- Ngày 05/11/2018 Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang xử phạt 09 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản (Bản án số 124/2018/HSST).

Bị cáo bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày từ ngày 02/10/2018, hiện đang tạm giam tại Trại Tạm giam Công an tỉnh Tuyên Quang. Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

1 Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 10 giờ 30 phút ngày 02/10/2018 bị cáo Nguyễn Ngọc L đi bộ đến khu vực thuộc tổ 13, phường P, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang, thì gặp H (là người nghiện ma túy, sống lang thang, bị cáo mới quen ngày 01/10/2018). H nói với bị cáo là mới bán Methamphetamine, nếu có ai mua thì giới thiệu cho H. Bị cáo bảo H đưa cho bị cáo 01 ít dùng thử, nếu được thì sẽ giới thiệu sau, H chỉ tay về phía chân cột điện gần đó và bảo bị cáo tý nữa ra lấy ở trong vỏ bao thuốc lá Thăng Long. Sau đó bị cáo đi bộ về nhà, khoảng 10 phút sau bị cáo đi bộ đến chân cột điện do H chỉ điểm, lấy được 01 bao thuốc lá Thăng Long vỏ màu vàng, bị cáo mở ra xem thấy bên trong có 01 gói Methamphetamine được gói bằng giấy nilon màu trắng và 03 điếu thuốc lá, bị cáo cất giấu trong túi quần bên phải đang mặc và đi bộ về nhà. Khi đến khu vực tổ 32, phường M, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang, thì bị Tổ công tác Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Tuyên Quang, phát hiện, bắt quả tang cùng tang vật là 01 gói Methamphetamine. Tiến hành xét nghiệm tìm chất ma túy đối với bị cáo Nguyễn Ngọc L, kết quả: (+) dương tính (có chất ma túy trong cơ thể Nguyễn Ngọc L).

Tại Kết luận giám định số 434/GĐKTHS ngày 04/10/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Tuyên Quang, kết luận: Số chất tinh thể màu trắng thu giữ của Nguyễn Ngọc L gửi giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine, số thứ tự 23 thuộc danh mục II C, Nghị định 73/NĐ-CP ngày 15/5/2018; khối lượng 0,190g (Không phẩy một chín không gam).

Tại bản Cáo trạng số 141/CT-VKSTP ngày 19 tháng 11 năm 2018, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tuyên Quang đã truy tố bị cáo Nguyễn Ngọc L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Kết thúc phần tranh luận, Kiểm sát viên trình bày luận tội giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Nguyễn Ngọc L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c, khoản 1, Điều 249; điểm s, khoản 1, Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc L từ 01 năm 03 tháng đến 01 năm 06 tháng tù.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo;

Áp dụng: Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự; Tịch thu tiêu huỷ 01 phong bì niêm phong có chữ ký của bị cáo và hình dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang, bên trong có Methamphetamine là mẫu giám định hoàn lại và 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng, bên trong có 03 điếu thuốc lá. Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động nhãn hiệu HOTWAY đã sử dụng, bên trong điện thoại có 02 sim điện thoại nhưng tạm giữ để đảm bảo cho việc thi hành án.

(Tình trạng vật chứng thể hiện tại biên bản giao, nhận vật chứng ngày 20/11/2018 giữa Cơ quan CSĐT Công an thành phố Tuyên Quang và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Tuyên Quang).

Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và tuyên quyền kháng cáo cho bị cáo theo quy định của pháp luật.

Bị cáo nhất trí với luận tội của Kiểm sát viên, không trình bày lời bào chữa, bị cáo chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Trong quá trình điều tra và truy tố, Điều tra viên và Kiểm sát viên đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Tại phiên toà Kiểm sát viên đã thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn khi thực hành quyền công tố. Bị cáo không thắc mắc, khiếu nại nội dung gì về các hành vi, quyết định tố tụng.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Ngọc L tiếp tục khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra. Hành vi phạm tội của bị cáo còn được chứng minh bằng: Biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ; Kết luận giám định cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do vậy Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hồi 10 giờ 50 phút ngày 02/10/2018, tại tổ 32, phường M, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang. Nguyễn Ngọc L đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,190g (Không phẩy một chín không gam) Methamphetamine. Mục đích để sử dụng.

Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, có hành vi tàng trữ Methamphetamine mục đích để sử dụng, hành vi của bị cáo thực hiện với lỗi cố ý, do vậy Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tuyên Quang truy tố bị cáo về tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý theo quy định tại điểm c, khoản 1, Điều 249 của Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, không oan.

[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt bổ sung:

- Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách n hiệm hình sự.

- Trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử, bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình; bị cáo tỏ rõ thái độ ăn năn hối cải. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s, khoản 1, Điều 51 của Bộ luật Hình sự cần áp dụng cho bị cáo.

- Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời khai của bị cáo tại phiên tòa, xét thấy bị cáo là đối tượng nghiện chất ma tuý, không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định; không có tài sản gì có giá trị nên không cần thiết áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[4] Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma tuý của bị cáo, Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Tuyên Quang đã xử phạt vi phạm hành chính. Hội đồng xét xử thấy như vậy là phù hợp.

[5] Trong vụ án này còn có người đàn ông tên H, theo bị cáo khai nhận là người cho bị cáo Methamphetamine nhưng không xác định được họ tên, địa chỉ nên không có căn cứ để xử lý. Do vậy Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về vật chứng, án phí và quyền kháng cáo:

- Về vật chứng: Đối với 01 phong bì đã niêm phong có chữ ký của bị cáo và hình dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Tuyên Quang, bên trong có Methamphetamine là mẫu giám định hoàn lại và 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng, bên trong có 03 điếu thuốc lá. Đây là vật không có giá trị sử dụng nên tịch thu, tiêu huỷ;

Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu HOTWAY đã sử dụng, bên trong điện thoại có 02 sim điện thoại không liên quan đến việc phạm tội nên trả lại cho bị cáo nhưng tạm giữ để đảm bảo cho việc thi hành án.

(Tình trạng vật chứng thể hiện tại biên bản giao, nhận vật chứng ngày 20/11/2018 giữa Cơ quan CSĐT Công an thành phố Tuyên Quang và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Tuyên Quang).

- Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án do Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành.

- Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm theo quy định tại Điều 331, 333 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm c, khoản 1, Điều 249; điểm s, khoản 1, Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự;

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Ngọc L phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý".

Xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc L 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt, tạm giữ, tạm giam 02/10/2018.

2. Căn cứ vào Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu huỷ: 01 phong bì đã niêm phong có chữ ký của bị cáo và hình dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Tuyên Quang, bên trong có Methamphetamine là mẫu giám định hoàn lại và 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng, bên trong có 03 điếu thuốc lá .

- Trả lại cho bị cáo Nguyễn Ngọc L 01 điện thoại di động nhãn hiệu HOTWAY đã sử dụng, bên trong điện thoại có 02 sim điện thoại không liên quan đến việc phạm tội nên trả lại cho bị cáo nhưng tạm giữ để đảm bảo cho việc thi hành án.

(Tình trạng vật chứng thể hiện tại biên bản giao, nhận vật chứng ngày 20/11/2018 giữa Cơ quan CSĐT Công an thành phố Tuyên Quang và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Tuyên Quang).

3. Căn cứ vào các Điều 136; Điều 331 và Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Nguyễn Ngọc L phải chịu 200.000đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

232
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 146/2018/HS-ST ngày 27/11/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:146/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Tuyên Quang - Tuyên Quang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về