Bản án 146/2018/HNGĐ-ST ngày 30/11/2018 về ly hôn và tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THỦ DẦU MỘT, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 146/2018/HNGĐ-ST NGÀY 30/11/2018 VỀ LY HÔN VÀ TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 30 tháng 11 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Bình Dương, Tòa án nhân dân thành phố T xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 788/2018/TLST-HNGĐ ngày 09 tháng 10 năm 2018 về việc “Ly hôn và tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 178/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 25 tháng 10 năm 2018, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn : Bà Nguyễn Thị Mỹ D, sinh năm 1967. (Vắng mặt và có đơn xin giải quyết vắng mặt).

2. Bị đơn : Ông Nguyễn Hữu Đ, sinh năm 1974. (Vắng mặt) Cùng cư trú tại: phường P, thành phố T, tỉnh Bình Dương.

NỘI DUNG VỤ ÁN

 [1]. Theo đơn khởi kiện ngày 26 tháng 9 năm 2018 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà Nguyễn Thị Mỹ D trình bày:

Bà D và ông Nguyễn Hữu Đ tự nguyện chung sống và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện B, tỉnh Bình Dương, theo Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 105, ngày 07/10/2004. Từ khi kết hôn đến nay vợ chồng không có hạnh phúc, nguyên nhân là do ông Đ không có trách nhiệm với gia đình, không quan tâm chăm sóc vợ con mà thường bỏ nhà đi, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng, không thể hàn gắn. Nay, nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà D yêu cầu được ly hôn với ông Đ.

Về con chung: Bà D và ông Đ có 01 con chung là cháu Nguyễn Hữu P, sinh ngày 07/01/2008; hiện nay cháu P đang sinh sống cùng với bà D. Sau khi ly hôn bà D yêu cầu được quyền trực tiếp nuôi con chung; không yêu cầu ông Đ cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

 [2]. Bị đơn ông Nguyễn Hữu Đ, mặc dù đã được triệu tập hợp lệ nhiều lần để làm việc, tham gia hòa giải và tham gia phiên tòa nhưng vẫn vắng mặt không có lý do và cũng không gửi văn bản ghi ý kiến của mình cho Tòa án nên Tòa án không thể ghi nhận ý kiến của ông Đ được.

Tại phiên tòa,

- Nguyên đơn bà Nguyễn Thị Mỹ D có đơn xin giải quyết vắng mặt.

- Bị đơn ông Nguyễn Hữu Đ vắng mặt không có lý do.

- Ý kiến của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa:

+ Từ khi thụ lý vụ án đến khi khai mạc phiên tòa, Thẩm phán đã xác định đúng quan hệ pháp luật tranh chấp là “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ Luật Tố tụng dân sự; xác định đúng tư cách đương sự theo quy định tại Điều 68 của Bộ Luật Tố tụng dân sự; thụ lý và giải quyết đúng thẩm quyền theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ Luật Tố tụng dân sự. Trình tự thụ lý, xác minh, thu thập và giao nhận chứng cứ đầy đủ, đúng trình tự theo quy định. Vụ án được đưa ra xét xử đúng thời hạn theo quy định tại Điều 48, Điều 203 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

+ Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử, Thư ký đã thực hiện đầy đủ thẩm quyền theo quy định tại chương XIV về phiên tòa sơ thẩm.

+ Đối với những người tham gia tố tụng: Nguyên đơn đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình theo quy định pháp luật, riêng bị đơn ông Nguyễn Hữu Đ đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng không tham gia phiên tòa nên Tòa án xét xử vắng mặt bị đơn là đúng quy định tại Điều 227, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn có đơn xin giải quyết vắng mặt nên Tòa án xét xử vắng mặt tất cả những người tham gia tố tụng là đúng theo quy định tại Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự.Kiểm sát viên  không kiến nghị khắc phục gì thêm.

+ Về việc giải quyết vụ án: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình, chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 [1]. Về tố tụng:

 [1.1]. Về quan hệ pháp luật: Bà Nguyễn Thị Mỹ D có đơn khởi kiện về việc xin ly hôn và tranh chấp về nuôi con với ông Nguyễn Hữu Đ nên đây là vụ án “Ly hôn và tranh chấp về nuôi con” theo quy định tại Điều 51, Điều 53 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

 [1.2]. Về thẩm quyền: Tại thời điểm thụ lý, bị đơn ông Nguyễn Hữu Đ đang cư trú tại thành phố T, tỉnh Bình Dương nên căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì đây là vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Bình Dương.

 [1.3]. Về việc tham gia phiên tòa của đương sự: Tại phiên tòa nguyên đơn bà Nguyễn Thị Mỹ D vắng mặt, có đơn xin giải quyết vắng mặt; bị đơn ông Nguyễn Hữu Đ vắng mặt không có lý do mặc dù đã được triệu tập đến tham dự phiên tòa lần thứ hai. Vì vậy, căn cứ vào Điều 227, Điều 228 và Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân thành phố T tiến hành xét xử vụ án vắng mặt đối với bà D và ông Đ.

 [2]. Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, Hội đồng xét xử xét thấy:

 [2.1]. Về quan hệ hôn nhân: Ngày 07/10/2004, bà D và ông Đ đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện B (nay là phường T, thị xã B), tỉnh Bình Dương. Việc chung sống và đăng ký kết hôn giữa bà D và ông Đ là hoàn toàn tự nguyện, không bên nào bị ép buộc nên đã tuân thủ đúng quy định tại Điều 9 và Điều 11 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 nên hôn nhân giữa bà D và ông Đ là hợp pháp, được pháp luật công nhận và bảo vệ.

Quá trình chung sống, bà D xác định vợ chồng có nhiều mâu thuẫn mà nguyên nhân là do ông Đ không chăm lo cho gia đình, vợ con mà thường bỏ đi khỏi nhà, từ đó mâu thuẫn ngày càng trầm trọng, vợ chồng không còn quan tâm đến nhau, vợ chồng không có hạnh phúc. Việc, bà D và ông Đ không còn quan tâm, thương yêu, chăm sóc và giúp đỡ lẫn nhau và không cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình dẫn đến tình cảm vợ chồng không còn nên đã vi phạm nghiêm trọng quyền và nghĩa vụ của vợ chồng theo quy định tại Điều 19 của Luật Hôn nhân và Gia đình. Mặt khác, quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã triệu tập hợp lệ ông Đ nhiều lần để Tòa án tiến hành hòa giải đoàn tụ gia đình nhưng ông Đ vẫn cố tình vắng mặt, điều này chứng tỏ ông Đ không có thiện chí mong muốn gia đình được đoàn tụ.

Như vậy, có đủ cơ sở khẳng định, hôn nhân giữa bà D và ông Đ đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên căn cứ vào Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình, cần chấp nhận yêu cầu của bà D, cho bà D được ly hôn với ông Đ.

 [2.2]. Về con chung: Bà D và ông Đ có 01 người con chung là cháu Nguyễn Hữu P, sinh ngày 07/01/2008. Khi ly hôn bà D có nguyện vọng được quyền trực tiếp nuôi con. Xét thấy, bà D có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng con chung, đồng thời cung cấp cho Tòa án chứng cứ để chứng minh mình có đủ khả năng nuôi dạy con chung; còn ông Đ không đến Tòa án làm việc, không có văn bản trình bày ý kiến của mình về việc mong muốn được nuôi con chung. Mặt khác, cháu P cũng có nguyện vọng được chung sống cùng với bà D. Vì vậy, để cháu P phát triển lành mạnh về thể chất, trí tuệ, đạo đức, trở thành người con hiếu thảo của gia đình, công dân có ích cho xã hội, cần giao cháu P cho bà D trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng là phù hợp nên yêu cầu của bà D về phần con chung được chấp nhận.

 [2.3]. Về cấp dưỡng: Đương sự không yêu cầu nên không xem xét giải quyết.

 [2.4]. Về tài sản chung và nợ chung: Các đương sự không yêu cầu nên không xem xét giải quyết.

 [3]. Tại Tòa, quan điểm giải quyết vụ án của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân thành phố T là có cơ sở.

 [4]. Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Căn cứ Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án: Bà D phải chịu 300.000 đồng; ông Đ không phải chịu.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Áp dụng khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 238 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Áp dụng các Điều 51, 53, 56, 58, 81, 82, 83 và 84 của Luật Hôn nhân và Gia đình;

- Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Mỹ D về việc “Ly hôn và tranh chấp về nuôi con” đối với bị đơn là ông Nguyễn Hữu Đ.

1.1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị Mỹ D được ly hôn với ông Nguyễn Hữu Đ.

1.2. Về con chung: Bà Nguyễn Thị Mỹ D được quyền trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cháu Nguyễn Hữu P, sinh ngày 07/01/2008.

1.3. Về cấp dưỡng nuôi con: Không xem xét giải quyết.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền và nghĩa vụ đi lại, thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung mà không ai có quyền cấm đoán, ngăn cản. Vì lợi ích mọi mặt của con chưa thành niên, các bên có quyền yêu cầu mức cấp dưỡng, xin thay đổi người trực tiếp nuôi con nếu có căn cứ cho rằng bên kia không đáp ứng được quyền lợi của con.

1.4. Về tài sản chung và nợ chung: Không xem xét giải quyết.

2. Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Bà Nguyễn Thị Mỹ D phải nộp 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng); được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí bà Nguyễn Thị Mỹ D đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số0022780 ngày 03/10/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố T.

3. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

4. Các đương sự được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

246
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 146/2018/HNGĐ-ST ngày 30/11/2018 về ly hôn và tranh chấp nuôi con

Số hiệu:146/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thủ Dầu Một - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về