Bản án 145/2019/HSST ngày 29/10/2019 về tội trộm cắp tài sản

A ÁN NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 145/2019/HSST NGÀY 29/10/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 29 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận Bình Thạnh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 136/2019/HSST ngày 16/8/2019, quyết định đưa vụ án ra xét xử số 254/QĐXX ngày 08/10/2019 đối với các bị cáo:

1. Bùi Ngọc Quỳnh N, Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nữ; Sinh ngày: 10/10/1993; Tại: Thành phố H; Nơi đăng ký HKTT: không nơi ở cố định; Chỗ ở: Như trên; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Trình độ học vấn: 9/12; Nghề nghiệp: không; Họ và tên cha: Bùi Văn M; Họ và tên mẹ: Trần Thị Thanh X; Có 01 con sinh năm: 2010; Tiền án, tiền sự : không; Lịch sử bản thân: Ngày 20/02/2016 Tòa án nhân dân quận Gò Vấp ra Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là 15 tháng.

Bị cáo bị tạm giam từ ngày 29/3/2019. (có mặt)

2. Nguyễn Tuyết A - Giới tính: Nữ; Sinh ngày: 17/11/1993; Tại: Thành phố H; Nơi đăng ký HKTT: M đường Đ, phường K, quận B, thành phố Hồ Chí Minh; Chỗ ở: Như trên; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Trình độ học vấn: 8/12; Nghề nghiệp: không; Họ và tên cha: Nguyễn Huỳnh M; Họ và tên mẹ: Nguyễn Kim V; Anh chị em có 02 người, bị can là người thứ 01; Có 02 con, lớn sinh năm: 2014, nhỏ sinh năm: 2016; Tiền án, tiền sự: không;

Ngày 26/3/2019 có hành vi trộm cắp xe mô tô tại phường 17, quận Bình Thạnh. Đến ngày 20/8/2019 đã bị Tòa án nhân dân quận Phú Nhuận xử 09 (chín) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo bản án số 58/2019/HS-ST.

Bị cáo bị tạm giam từ ngày 15/5/2019. (có mặt)

Người bị hại:

1/ Chị Nguyễn Vy Y (có mặt)

Địa chỉ: B đường P, phường B, quận P, thành phố Hồ Chí Minh.

2/ Chị Ngô Hồng K (vắng mặt)

Địa chỉ: C đường N, phường B, quận D, thành phố Hồ Chí Minh.

3/ Anh Nguyễn Minh H (vắng mặt)

Địa chỉ: N đường Đ, phường L, quận B, thành phố Hồ Chí Minh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt Như sau:

Nguyễn Tuyết A và Bùi Ngọc Quỳnh N là bạn học từ tiểu học. Khoảng 15 giờ ngày 26/3/2019, Nguyễn Tuyết A đi bộ đến tiệm bắn cá tại đường V, phường T, Quận A chơi, thì tình cờ gặp Bùi Ngọc Quỳnh N. Khi cả hai đang chơi thì N rủ A đi uống trà sữa tại tiệm “NG” số T đường V phường B quận B, A đồng ý nên N mượn xe môtô Utimo (không rõ biển số) của người bạn tên T (không rõ lai lịch) tại tiệm bắn cá và đưa cho A điều khiển chở N đến quán trà sữa “NG” số T đường V phường B, quận B. Khi đến nơi, A dựng xe trước cửa bên cạnh có chiếc xe môtô Yamaha Sirius biển số: 59S2-880.07 và cả hai bước vào quán, A ngồi chờ còn N đến quầy tính tiền thì thấy một chìa khóa xe nên lén lút lấy trộm chìa khóa rồi đưa cho N, N bỏ vào túi quần rồi đi ra trước cửa quán lấy chìa khóa vừa trộm được cắm vào công tắc xe môtô Yamaha Sirius biển số: 59S2-880.07 do anh Nguyễn Minh H là nhân viên của quán đang để thì thấy mở được và để nguyên chìa khóa tại xe rồi đi vào quán bàn với A về việc lấy trộm xe, sau khi thống nhất cả hai cùng ra khỏi quán, A điều khiển xe môtô Utimo còn N điều khiền xe môtô Yamaha Sirius biển số: 59S2-880.07 rồi cả hai cùng đi về hướng cầu Đ, sau đó N gửi xe môtô Yamaha Sirius biển số: 59S2-880.07 vào bãi giữ xe số K đường B phường H quận B rồi điện thoại báo cho A biết trong cốp xe có giấy đăng ký xe, sau đó đưa thẻ xe cho Trần H (là chồng nhưng không đăng ký kết hôn) giữ dùm nhưng không nói cho Trần H biết là tài sản trộm cắp, còn A chạy xe môtô Utimo đến tiệm bắn cá trả cho N rồi đi bộ về nhà. Sau đó, cả 02 đang ở khách sạn NL trên đường CV phường M quận B, bàn nhau về việc đem xe vừa trộm được bán lấy tiền chia nhau tiêu xài, thì công an phường 17 quận Bình Thạnh mời A và N về phường làm việc. Tại đây A và N khai nhận hành vi trộm cắp như trên và điện thoại cho Trần H đem xe môtô Yamaha Sirius biển số: 59S2-880.07 đến giao nộp, Công an phường 17 quận Bình Thạnh lập hồ sơ chuyển Công an quận Bình Thạnh xử lý.

Quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Bình Thạnh phát hiện Bùi Ngọc Quỳnh N và Nguyễn Tuyết A còn thực hiện thêm 02 vụ trộm khác cụ thể Như sau:

Vụ thứ nhất: Vào khoảng 16giờ ngày 22/3/2019, chị Nguyễn Vy Y điều khiển xe môtô Future biển số: 47R1-0975 đến cửa hàng tiện tích Family Mart số E đường C, phường H quận B và dựng xe bên ngoài, không khóa cổ xe rồi đi vào trong làm việc. Đến 21giờ 40 phút cùng ngày, chị Y ra ngoài để nhận hàng thì phát hiện chiếc xe của mình bị mất, nên chị Y đến Công an phường 26 quận Bình Thạnh trình báo. Qua kiểm tra dữ liệu camera tại cửa hàng phát hiện trước đó có 02 đối tượng nữ đến cửa hàng và thực hiện lấy trộm xe của chị Y rồi tẩu thoát. Qua đấu tranh làm rõ thì N và A khai nhận như sau: Khoảng 21giờ ngày 22/3/2019, N điều khiển xe môtô chở A đến cửa hàng tiện tích Family Mart số E đường C, phường H quận B, A đứng ngoài còn N giả vờ vào trong mua hàng, sau đó đi ra cả 02 phát hiện xe môtô Future biển số: 47R1-0975 không khóa cổ nên bàn bạc lấy trộm, N đi đến lấy trộm chiếc xe Future biển số: 47R1-0975 đẩy ra ngoài, lên xe ngồi để A điều khiển xe môtô dùng chân đẩy xe N tẩu thoát. Sau khi đẩy N ra gần hẻm nhà thờ C phường L quận B, N đi làm chìa khóa còn A chạy về nhà, sau đó N gọi điện cho D (không rõ lai lịch) ở Quận M và hẹn gặp nhau tại cổng trường S đường B phường H quận B, bán chiếc xe môtô Future biển số: 47R1-0975 với giá 4.000.000đồng, N chia cho A 2.000.000đồng.

Vụ thứ hai: Vào khoảng 4 giờ ngày 16/4/2019, chị Ngô Hồng K điều khiển xe môtô Yamaha Ravita biển số: 61U1-0217 đến cửa hàng tiện ích Family Mart số E đường C, phường H quận B và dựng xe bên ngoài, không khóa cổ xe, không người trông coi rồi đi vào trong ăn uống. Đến khoảng 5 giờ 30 phút cùng ngày, chị K ra lấy xe về thì phát hiện chiếc xe bị mất nên đến Công an phường 26 quận Bình Thạnh trình báo. Qua kiểm tra dữ liệu camera tại cửa hàng phát hiện lúc 4 giờ 20 phút có 03 đối tượng đến giả vờ mua hàng và sau đó lấy trộm chiếc xe Yamaha Ravita biển số: 61U1-0217. Qua đấu tranh làm rõ thì A khai nhận: sau khi Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Bình Thạnh khởi tố bị can, ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú trong vụ trộm cùng với N tại phường 17 quận Bình Thạnh vào ngày 26/3/2019 thì khoảng 21 giờ ngày 16/4/2019, A điều khiển xe môtô Max (không nhớ biển số) chở 02 đối tượng B và C (chưa rõ lai lịch) đi đến cửa hàng tiện ích Family Mart số E đường C, phường H quận B. Khi đến nơi A và Tài đứng ngoài cảnh giới, còn Tèo giả vờ vào trong mua đồ, sau đó đi ra ngoài đến chỗ để xe lấy trộm chiếc xe môtô Yamaha Ravita biển số: 61U1-0217 nổ máy chạy thoát, còn Tài điều khiển xe môtô Max chở A về nhà và Tài nói đi tìm Tèo, sau đó A không còn liên lạc được nên không biết B và C đã bán chiếc xe cho ai, nên A không được chia tiền.

Ngoài ra vào ngày 15/5/2019 A bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Phú Nhuận khởi tố bị can, tạm giam về hành vi trộm cắp tài sản.

Căn cứ thông báo kết luận số 155 ngày 03/5/2019 của Phòng tài chính kế hoạch - Ủy ban nhân dân quận Bình Thạnh kết luận: 01 xe gắn máy hai bánh hiệu Yamaha Sirius biển số: 59S2-880.07 trị giá 17.000.000đồng.

Căn cứ thông báo kết luận số 194 ngày 05/6/2019 của Phòng tài chính kế hoạch - Ủy ban nhân dân quận Bình Thạnh kết luận: 01 xe gắn máy hai bánh hiệu Honda Future biển số: 47R1-0975 trị giá 15.000.000 đồng.

Căn cứ thông báo kết luận số 188 ngày 05/6/2019 của Phòng tài chính kế hoạch - Ủy ban nhân dân quận Bình Thạnh kết luận: 01 xe gắn máy hai bánh hiệu Yamaha Ravita biển số: 61U1-0217 trị giá 8.000.000đồng.

Tại bản cáo trạng số 136/CT – VKSBT ngày 13/8/2019 của Viện Kiểm Sát nhân dân quận Bình Thạnh đã truy tố các bị cáo Bùi Ngọc Quỳnh N và Nguyễn Tuyết A về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1, Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa:

* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Thạnh thực hiện quyền công tố tại phiên toà vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố, trình bày lời luận tội, đánh giá tính chất, mức độ và hậu quả nguy hiểm cho xã hội cũng như các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và đề nghị:

- Tuyên bố các bị cáo Bùi Ngọc Quỳnh N và Nguyễn Tuyết A về tội “Trộm cắp tài sản”; áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017,

+ Xử phạt bị cáo Bùi Ngọc Quỳnh N từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù.

+ Xử phạt bị cáo Nguyễn Tuyết A từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù. Áp dụng Điều 56 Bộ luật hình sự năm 2015, tổng hình phạt của bản án số 58/2019/HS-ST ngày 20-8-2019 của Tòa án nhân dân quận Phú Nhuận, buộc bị cáo A phải chấp hành hình phạt chung của cả hai bản án.

- Về xử lý vật chứng:

+ 02 USB và 01 đĩa ghi hình có chứa đoạn video ghi hình N vàAlấy trộm xe, đề nghị tiếp tục lưu hồ sơ vụ án.

+ 01 nón bảo hiểm màu đen có ghi chữ Sport, 01 đôi dép màu trắng, 01 khẩu trang màu xanh, 01 nón bảo hiểm màu đen, 01 đôi dép màu xanh là vật dụng cá nhân do các bị cáo mặc và sử dụng khi thực hiện hành vi phạm tội, không còn giá trị sử dụng nên đề nghị tịch thu tiêu hủy.

+ 01 ĐTDĐ Nokia màu đỏ đen của bị cáo A và 01 điện thoại Nokia màu xanh đen thu của bị cáo N là phương tiện các bị cáo liên lạc rủ nhau đi phạm tội nên đề nghị tịch thu sung quỹ nhà nước.

- Về trách nhiệm dân sự: Anh Nguyễn Minh H đã nhận lại tài sản nên không có yêu cầu gì. Đối với chị Nguyễn Vy Y do tài sản chiếm đoạt không thu hồi được có yêu cầu hai bị cáo phải liên đới bồi thường số tiền 15.000.000 đồng; chị Ngô Hồng K yêu cầu bị cáo A bồi thường trị giá chiếc xe bị mất là 8.000.000 đồng.

Các bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội N cáo trạng đã nêu và không có ý kiến tranh luận với phần luận tội của đại diện Viện kiểm sát, lời nói sau cùng bị cáo đã nhận thức việc làm của mình là vi phạm pháp luật, mong Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt. Về phần dân sự hai bị cáo đồng ý tự nguyện bồi thường trị giá tài sản chiếm đoạt cho chị Nguyễn Vy Y số tiền 15.000.000 đồng và cá nhân bị cáo A đồng ý tự nguyện bồi thường cho chị K số tiền là 8.000.000 đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy Như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Bình Thạnh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Thạnh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã được thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2]. Tại cơ quan điều tra cũng như qua thẩm tra xét hỏi trước phiên tòa hôm nay, các bị cáo Bùi Ngọc Quỳnh N và Nguyễn Tuyết A đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như cáo trạng đã nêu, lời khai của các bị cáo phù hợp với camera ghi hình hành vi chiếm đoạt tài sản của các bị cáo, phù hợp với lời khai của các bị hại, người làm chứng, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và phù hợp với các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án và đúng như hành vi phạm tội mà Viện kiểm sát truy tố hai bị cáo ra trước tòa, cho thấy: Các bị cáo Bùi Ngọc Quỳnh N và Nguyễn Tuyết A do muốn kiếm tiền tiêu xài mà không phải lao động nên có ý định chiếm đoạt tài sản từ trước, các bị cáo cùng nhau thực hiện hai vụ chiếm đoạt tài sản cụ thể, ngày 22/3/2019 bị cáo N điều khiển xe mô tô đến cửa hàng Family Mart số E đường C, phường H, quận B phát hiện xe mô tô Future biển số 47R1-0975 của chị Y không khóa cổ nên N đi đến lén lút đẩy xe ra để A điều khiển xe dùng chân đẩy xe đã chiếm đoạt mang đi bán được 4.000.000 đồng, cả hai chia nhau tiêu xài. Tiếp đến, cũng hành vi tương tự ngày 26/3/2019 N rủ A đến quán trà sữa “NG” tại số T đường V phường B, quận B để uống trà sữa, khi đến quán N phát hiện một chìa khóa để trên quầy tính tiền bị cáo đã lén lút lấy chìa khóa và rủ A trộm xe, sau khi thống nhất cả hai đi ra khỏi quán và lén lút mở khóa xe Yamaha Sirius biển số: 59S2-880.07 của anh H đem đi bán lấy tiền chia nhau tiêu xài nhưng chưa kịp bán thì bị công an phường 17, quận Bình Thạnh qua truy xét phát hiện thu hồi chiếc xe các bị cáo đã chiếm đoạt. Ngoài ra, đối với bị cáo A trong thời gian cho tại ngoại chờ kết quả điều tra đối với hai hành vi chiếm đoạt trên bị cáo lại cùng đối tượng tên B và C chưa rõ lai lịch, cũng với hành vi tương tự, bị cáo A điều khiển xe gắn máy chở hai đối tượng trên tiếp tục đến cửa hàng Family Mart số E đường C, phường H, quận B lén lút chiếm đoạt một xe gắn máy hiệu Yamaha Ravita biển số: 61U1-0217 của chị Ngô Hồng K.

Với hành vi nêu trên, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận các bị cáo N và A đã lợi dụng sơ hở của các bị hại để lén lút chiếm đoạt tài sản, trong thời gian ngắn liên tiếp thực hiện 02 vụ chiếm đoạt tài sản, tài sản chiếm đoạt theo kết luận định giá đối với xe gắn máy Yamaha Sirius biển số: 59S2-880.07 của anh Nguyễn Minh H có trị giá 17.000.000 đồng và xe Honda Future biển số: 47R1-0975 của chị Nguyễn Vy Y trị giá 15.000.000 đồng. Ngoài ra, cũng với hành vi tương tự bị cáo N còn cùng các đối tượng khác chiếm đoạt 01 xe gắn máy hai bánh hiệu Yamaha Ravita biển số: 61U1-0217 của chị Ngô Hồng K theo kết luận định giá có trị giá là 8.000.000 đồng. Tổng cộng tài sản bị cáo N chiếm đoạt có trị giá là 32.000.000 đồng và bị cáo A có trị giá là 40.000.000 đồng. Hành vi của các bị cáo đã phạm tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[3]. Về tính chất, mức độ, động cơ hành vi phạm tội và nhân thân của các bị cáo: Hành vi phạm tội của các bị cáo thể hiện tính xem thường pháp luật, chỉ vì cần tiền tiêu xài lười lao động bị cáo đã cố ý phạm tội, gây nguy hiểm cho xã hội. Hành vi của các bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của công dân, đồng thời còn gây ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự ở địa phương. Bản thân các bị cáo trong thời gian ngắn đã thực hiện nhiều lần trộm cắp tài sản, thể hiện bản chất coi thường pháp luật nên cần phải áp dụng một mức phạt nghiêm khắc tương xứng với hành vi, vai trò và nhân thân của các bị cáo, mới có tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung cho xã hội.

[4]. Đây là vụ án phạm tội có tính chất đồng phạm, cả hai bị cáo đều là người khởi xướng và rủ rê, và là người trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội, nhưng các bị cáo không tổ chức cấu kết chặt chẽ thuộc trường hợp đồng phạm giản đơn nên khi lượng hình cũng cần có một mức hình phạt tương xứng với hành vi, vai trò của bị cáo trong vụ án. Đối với các đối tượng C và B (chưa rõ lai lịch) thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản cùng bị cáo A, cần kiến nghị cơ quan điều tra tiếp tục điều tra làm rõ để xử lý sau.

[5]. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Trong thời gian ngắn bị cáo Bùi Ngọc Quỳnh N đã thực hiện 02 hành vi chiếm đoạt tài sản, bị cáo Nguyễn Tuyết A đã thực hiện 03 hành vi chiếm đoạt tài sản và các lần chiếm đoạt đều đủ dấu hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự. Do đó, các bị cáo đã phạm tội thuộc trường hợp “phạm tội 02 lần trở lên”, đây là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 [6]. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà ngày hôm nay các bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 để giảm nhẹ cho các bị cáo một phần hình phạt theo quy định.

[7]. Tổng hợp hình phạt đối với bị cáo A: Ngày 20/8/2019 bị cáo A đã bị Tòa án nhân dân quận Phú Nhuận xử 09 (chín) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo bản án số 58/2019/HS-ST. Do vậy, cần áp dụng Điều 56 Bộ luật hình sự năm 2015 để tổng hợp hình phạt của cả hai bản án, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung.

[8] Về xử lý vật chứng:

- 02 USB và 01 đĩa ghi hình có chứa đoạn video ghi hình N và A lấy trộm xe là chứng cứ của vụ án nên cần tịch thu lưu hồ sơ vụ án.

- 01 nón bảo hiểm màu đen có ghi chữ Sport, 01 đôi dép màu trắng, 01 khẩu trang màu xanh, 01 nón bảo hiểm màu đen, 01 đôi dép màu xanh thu giữ của các bị cáo là chứng cứ vụ án không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

- 01 ĐTDĐ Nokia màu đỏ đen của bị cáo A và 01 diện thoại Nokia màu xanh đen thu của bị cáo N là phương tiện các bị cáo liên lạc rủ nhau đi trộm cắp tài sản nên cần nghị tịch thu sung quỹ nhà nước.

[9] Về trách nhiệm dân sự: Anh Nguyễn Minh H đã nhận lại tài sản nên không có yêu cầu gì. Đối với chị Nguyễn Vy Y tài sản chiếm đoạt không thu hồi được và có yêu cầu hai bị cáo phải liên đới bồi thường số tiền 15.000.000 đồng; chị Ngô Hồng K yêu cầu bị cáo A bồi thường trị giá chiếc xe bị mất là 8.000.000 đồng. Tại phiên tòa, các bị cáo tự nguyện bồi thường theo yêu cầu bị hại nên ghi nhận sự tự nguyện của các bị cáo.

[10] Về án phí: Các bị cáo phải nộp án phí hình sự và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Các bị cáo Bùi Ngọc Quỳnh N và Nguyễn Tuyết A phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 38 và Điều 56 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 đối với bị cáo Nguyễn Tuyết A.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Tuyết A 02 (hai) năm tù. Tổng hợp hình phạt 09 (chín) tháng tù về tội trộm cắp tài sản của bị cáo A theo bản án số 58/2019/HS-ST ngày 20/8/2019 của Tòa án nhân dân quận Phú Nhuận. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của cả hai bản án là 02 (hai) năm 09 (chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 15/5/2019.

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 đối với bị cáo Bùi Ngọc Quỳnh N.

Xử phạt bị cáo Bùi Ngọc Quỳnh N 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 29/3/2019.

2. Về phần dân sự: Áp dụng Điều 48 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Ghi nhận sự tự nguyện của các bị cáo: Bị cáo Bùi Ngọc Quỳnh N và bị cáo Nguyễn Tuyết A phải liên đới bồi thường cho chị Nguyễn Vy Y số tiền 15.000.000 đồng (mười lăm triệu đồng) và bị cáo Nguyễn Tuyết A bồi thường cho chị Ngô Hồng K số tiền 8.000.000 đồng (tám triệu đồng), sau khi án có hiệu lực pháp luật.

Kể từ ngày các bị hại có đơn yêu cầu thi hành án, các bị cáo chưa bồi thường số tiền nêu trên thì hàng tháng các bị cáo còn phải trả thêm tiền lãi đối với số tiền chậm bồi thường tương ứng với thời gian chậm bồi thường, lãi suất phát sinh do chậm bồi thường số tiền nêu trên theo quy định tại khoản 2, Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Tiếp tục lưu hồ sơ 02 USB và 01 đĩa ghi hình có chứa đoạn video ghi hình N và A thực hiện hành vi phạm tội.

- Tịch thu tiêu hủy 01 nón bảo hiểm màu đen có ghi chữ Sport, 01 đôi dép màu trắng, 01 khẩu trang màu xanh, 01 nón bảo hiểm màu đen, 01 đôi dép màu xanh.

- Tịch thu sung quỹ nhà nước 01 ĐTDĐ Nokia màu đỏ đen của bị cáo A và 01 điện thoại Nokia màu xanh đen thu của bị cáo N.

(Theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 22/5/2019 tại Chi cục thi hành án dân sự quận Bình Thạnh)

4. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Luật phí và Lệ phí; Nghị quyết 326/2016/UBNTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Buộc mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm, án phí dân sự sơ thẩm bị cáo Bùi Thị Quỳnh N phải nộp 375.000 đồng và bị cáo Nguyễn Tuyết A phải nộp 775.000 đồng, nộp tại cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền.

5. Về quyền kháng cáo: Áp dụng điều 331 và 333 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015: Bị cáo và bị hại có mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt hợp lệ bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

154
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 145/2019/HSST ngày 29/10/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:145/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Bình Thạnh - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về