Bản án 145/2019/HSST ngày 09/10/2019 về tội cố ý gây thương tích và trộm cắp tài sản

A ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ PHÚ MỸ, TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU

BẢN ÁN 145/2019/HSST NGÀY 09/10/2019 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH VÀ TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 09 tháng 10 năm 2019, tại Trụ sở Ủy ban nhân dân xã Sông Xoài, thị xã Phú Mỹ, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu; xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 134/2019/HSST ngày 05 tháng 09 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 122/2019/QĐXXST-HS ngày 24 tháng 09 năm 2019, đối với các bị cáo:

1. Thạch Văn G, sinh ngày 28-10-2000 tại Sóc Trăng; giới tính: nam; nơi đăng ký HKTT: Ấp L, xã A, huyện C, tỉnh Sóc Trăng; nơi ở: Ấp X, xã S, thị xã P, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu; nghề nghiệp: không; trình độ văn hoá: 6/12; dân tộc: Khơ Me; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Thạch Văn H và bà Nguyễn Thị B; Tiền sự, tiền án: không; bị bắt ngày 25 tháng 01 năm 2019, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thị xã Phú Mỹ ( bị cáo có mặt).

2. Đào Văn T, sinh ngày 22-02-2000 tại Bà Rịa – Vũng Tàu; giới tính: nam; nơi đăng ký HKTT và nơi ở: Thôn S, xã L, huyện C, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu; nghề nghiệp: không; trình độ văn hoá: 7/12; dân tộc: Châu Ro; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Mai Ngọc T và bà Đào Thị M; Tiền sự: Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 28/QĐ-XPVPHC ngày 30-10-2018 của Công an xã Láng Lớn, huyện Châu Đức, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xử phạt 1.500.000 đ về hành vi trộm cắp tài sản; Tiền án: không; Biện pháp ngăn chặn: Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số 68 ngày 09-05-2019 ( bị cáo có mặt).

Bị hại:

1. Nguyễn Huy T, sinh năm 1991; nơi cư trú: Ấp C, xã S, thị xã P, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (có mặt).

2. Nguyễn Thanh P, sinh năm 1979; nơi cư trú: Tổ X, ấp S, xã S, thị xã P tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (vắng mặt).

Người làm chứng:

1. Lý A N, sinh năm ; nơi cư trú: Tổ X, ấp C, xã S, thị xã P, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu ( vắng mặt).

2. Nguyễn Quang T, sinh năm 1992; nơi cư trú: Tổ X, ấp S, xã S, thị xã P, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình tranh tụng tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Chiều ngày 21-01-2019, Đào Văn T và Thạch Văn G đi chơi Net hết tiền, T đã rủ G đi bắt trộm gà bán lấy tiền tiêu xài, G đồng ý. T điều khiển xe máy chở G, khi đi mang theo một ná thun và nhiều cục đá sỏi để bắn gà. Đến 16 giờ cùng ngày, khi đi qua đoạn đường trước nhà ông Nguyễn Thanh P thuộc ấp S, xã S, thị xã P thì nhìn thấy một con gà đá của ông P đang ăn bên lề đường. T dừng xe máy lại, G sử dụng ná thun bắn được con gà nói trên, bắt bỏ vào áo khoác lên xe chạy đi. Cùng thời điểm lực lượng Công an xã Sông Xoài gồm: Ông Lý A N, ông Nguyễn Huy T đang đi tuần tra phát hiện G và T bắt trộm gà đã sử dụng xe máy truy đuổi theo. Khi đến khu vực ngã 4 miếu Q thuộc ấp X, xã S, thị xã P; ông T điều khiển xe đuổi theo sát xe của T và G. Thấy vậy, G sử dụng ná thun bắn đạn đá trúng mắt phải gây thương tích cho ông T. Ông T bị thương nặng được mọi người đưa đi cấp cứu điều trị thương tích, còn G và T điều khiển xe chạy thoát. Sau khi gây án, Thạch Văn G đã ném ná thun nên Cơ quan điều tra không thu giữ được vật chứng. Thạch Văn G và Đào Văn T đến Cơ quan điều tra đầu thú.

Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số: 34/TgT ngày 27-02- 2019 của Trung tâm pháp y thuộc Sở y tế tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu kết luận đối với thương tích của ông Nguyễn Huy T:

1. Dấu hiệu chính qua giám định: Chấn thương mắt phải, vỡ nhãn cầu, đã phẫu thuật múc nội nhãn, đặt bi tái tạo cùng đồ, lắp mắt giả. Mắt trái bình thường. 2. Về vật tác động, cơ chế tác động: Thương tích trên được gây ra do sự tác động tương hỗ của vật rắn tầy, tác động vào vị trí vết thương theo chiều hướng từ trước ra sau. 3. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây ra hiện tại là 51%.

Kết luận định giá tài sản số 50/KL ngày 09-05-2019 của Hội đồng định giá tài sản kết luận: 01 con gà trống, trọng lượng 1,3 kilogam, trị giá 143.000 đồng.

Cơ quan điều tra xác định: Đào Văn T không bàn bạc trước, không xúi giục Thạch Văn G sử dụng ná thun bắn gây thương tích cho ông Nguyễn Huy T, hành vi của T không đồng phạm với G về tội “ Cố ý gây thương tích”; Thạch Văn G thực hiện hành vi trộm cắp 01 con gà trị giá 143.000 đồng của ông Nguyễn Thanh P ( trị giá dưới 2.000.000 đ ), hành vi của G không cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”, nên Cơ quan điều tra không xử lý các hành vi trên của Đào Văn T và Thạch Văn G.

Bản cáo trạng số 112/CT-VKS ngày 04-07-2019, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Phú Mỹ đã truy tố Thạch Văn G về tội “ Cố ý gây thương tích” theo điểm c khoản 3 Điều 134 Bộ luật hình sự năm 2015; Truy tố Đào Văn T về tội “ Trộm cắp tài sản” theo điểm a khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa ngày 09-08-2019, căn cứ các tài liệu chứng cứ trong hồ sơ vụ án; Hội đồng xét xử thống nhất ý kiến hoãn phiên tòa, trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung làm rõ Đào Văn T có xúi giục và giúp sức cho Thạch Văn G thực hiện hành vi gây ra thương tích cho ông Nguyễn Huy T. Đề nghị truy tố Đào Văn T về tội “ Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm c khoản 3 Điều 134 Bộ luật hình sự. Đề nghị làm rõ về phương tiện phạm tội ( xe máy ) mà Thạch Văn G và Đào Văn T đã sử dụng khi thực hiện tội phạm.

Công văn số 190A/CV-VKS ngày 30-08-2019 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Phú Mỹ, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xác định: Căn cứ các tài liệu chứng cứ thu thập trong hồ sơ vụ án không đủ cơ sở vững chắc để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với Đào Văn T về tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm c khoản 3 Điều 134 Bộ luật hình sự; giữ nguyên quan điểm truy tố theo nội dung cáo trạng số 112/CT-VKS ngày 04-07-2019; đề nghị Tòa án tiếp tục giải quyết vụ án theo quy định pháp luật.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quan điểm truy tố hành vi bị cáo G thực hiện đủ yếu tố cấu thành tội “ Cố ý gây thương tích”, hành vi bị cáo T thực hiện đủ yếu tố cấu thànhhành tội“ Trộm cắp tài sản”.

Đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 3 Điều 134; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo G mức án từ 06 năm đến 07 năm tù; áp dụng điểm a khoản 1 Điều 173; điểm h, i, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo T mức án từ 12 đến 18 tháng tù.

Quá trình điều tra cũng như tại phiên toà, các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội đối với các tội danh Viện kiểm sát đã truy tố; các bị cáo không có ý kiến gì tự bào chữa cho hành vi phạm tội của mình, chỉ xin HĐXX xem xét giảm nhẹ một phần mức án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ các chứng cứ, tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra thị xã Phú Mỹ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Phú Mỹ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về tội danh“Trộm cắp tài sản”: Tại phiên tòa bị cáo T xác định vào khoảng 16 giờ ngày 21-01-2019, tại khu vực tổ X, ấp S, xã S, thị xã P, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu; bị cáo và Thạch Văn G đã lén lút thực hiện hành vi bắt trộm 01 con gà trống trị giá 143.000 đồng của ông Nguyễn Thanh P.

Xét lời khai nhận tội của bị cáo T tại tòa hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, người bị hại, kết quả định giá và các tài liệu chứng cứ khác đã được các cơ quan tiến hành tố tụng thu thập trong hồ sơ vụ án và thẩm tra lại tại phiên tòa.

Xét bị cáo T đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản, chưa hết thời hạn được coi là chưa bị xử lý vi phạm hành chính, nay lại tiếp tục phạm tội do lỗi cố ý. Vì vậy, mặc dù tài sản bị cáo T chiếm đoạt trị giá dưới 2.000.000 đ, nhưng hành vi bị cáo T thực hiện đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015.

[3]. Về tội danh“ Cố ý gây thương tích”: Tại phiên tòa bị cáo G xác định sau khi bị cáo và Đào Văn T bắt trộm 01 con gà trống của ông Nguyễn Thanh Pthì bị lực lượng Công an xã Sông Xoài phát hiện truy đuổi. Trong lúc bị lực lượng Công an xã Sông Xoài truy đuổi, bị cáo đã sử dụng một ná thun bắn đạn đá là hung khí nguy hiểm bắn trúng mắt phải của anh Nguyễn Huy T là công an viên xã Sông Xoài, gây ra thương tích cho người bị hại với tỷ lệ thương tật 51%.

Xét lời khai nhận tội của bị cáo G tại tòa hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với kết luận giám định pháp y và các tài liệu chứng cứ khác đã được các cơ quan tiến hành tố tụng thu thập trong hồ sơ vụ án và thẩm tra lại tại phiên tòa. Hành vi bị cáo G thực hiện đủ yếu tố cấu thànhhành tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm c khoản 3 Điều 134 Bộ luật hình sự năm 2015 với các tình tiết định khung hình phạt: dùng hung khí nguy hiểm, phạm tội đối với người đang thi hành công vụ.

4]. Xét tính chất, mức độ, hậu quả do hành vi phạm tội các bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội; bị cáo T xâm hại quyền sở hữu tài sản công dân; bị cáo G xâm phạm sức khỏe của người bị hại, làm mất chức năng một bộ phận cơ thể của nạn nhân; gây tâm lý hoang mang lo lắng, bất ổn trong cộng đồng dân cư; có nguy cơ gây nguy hiểm cho những người tham gia giao thông trong quá trình các bị cáo tẩu thoát bằng xe gắn máy và chạy với tốc độ cao; ảnh hưởng xấu đến trật tự an ninh xã hội tại địa phương. Sau khi vụ án xảy ra bị cáo G cũng chưa bồi thường thiệt hại cho người bị hại. Vì vậy, cần xử phạt các bị cáo mức án nghiêm theo quy định của pháp luật, nhằm giáo dục cải tạo riêng đối với các bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung.

[5]. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Lời khai ban đầu tại cơ quan điều tra của Thạch Văn G và Đào Văn T đều khai khi bị ông Nguyễn Huy T ép sát xe, T và G đã bàn nhau bảo bắn ông T để tẩu thoát và T có nói với G “bắn đi, bắn đi”. Nhưng sau đó Thạch Văn G và Đào Văn T đều thay đổi lời khai, cho rằng T không xúi giục G sử dụng ná thun bắn ông T. Như vậy là các bị cáo chưa có ý thức thành khẩn khai báo. Bị cáo T trộm cắp tài sản giá trị không lớn nhưng gây hậu quả nghiêm trọng đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội nên không được áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo điểm h khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên xét thấy các bị cáo đã ra đầu thú; đã ăn năn hối cải; bị cáo T phạm tội lần đầu và thuộc loại tội phạm ít nghiêm trọng, nên xem xét giảm cho các bị cáo một phần mức án.

[6]. Về trách nhiệm dân sự: Bị hại Nguyễn Huy T không yêu cầu bị cáo G bồi thường về phần trách nhiệm dân sự; bị hại Nguyễn Thanh P xác định không yêu cầu bị cáo T bồi thường về phần trách nhiệm dân sự; nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[7]. Về án phí: Các bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm.

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Thạch Văn G phạm tội “Cố ý gây thương tích”; bị cáo Đào Văn T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Áp dụng: Điểm c khoản 3 Điều 134; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015; xử phạt Thạch Văn G 06 ( sáu ) năm 06 ( sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 25 tháng 01 năm 2019.

3. Áp dụng: Điểm a khoản 1 Điều 173; điểm i , s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015; xử phạt Đào Văn T 01 ( một ) năm 06 ( sáu ) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

5. Án phí: Mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

6. Quyền kháng cáo: Các bị cáo, các đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày tính từ ngày tuyên án; đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết công khai để yêu cầu Toà án cấp trên xét xử lại vụ án theo thủ tục phúc thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu yêu cầu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

756
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 145/2019/HSST ngày 09/10/2019 về tội cố ý gây thương tích và trộm cắp tài sản

Số hiệu:145/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Phú Mỹ - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về