Bản án 145/2017/HS-ST ngày 29/09/2017 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TUYÊN QUANG, TỈNH TUYÊN QUANG

BẢN ÁN 145/2017/HS-ST NGÀY 29/09/2017 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 29 tháng 9 năm 2017, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang mở phiên tòa công khai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 136/2017/HSST ngày 12 tháng 9 năm 2017 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Nguyễn Huy H, sinh ngày 19/01/1983 tại Tuyên Quang

Trú tại: Xóm 1, xã T, thành phố T, tỉnh T.

Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn 12/12; Con ông Nguyễn Tố S, sinh năm 1957 và bà Phạm Thị O, sinh năm 1959; Vợ Hoàng Thị H, sinh năm 1991 (đã ly hôn); Con: Chưa có.

*Tiền án:

- Ngày 15/01/2009 bị Toà án nhân dân thị xã Tuyên Quang (nay là thành phốTuyên Quang) xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội Mua bán trái phép chất ma tuý.

- Ngày 14/6/2011 bị Toà án nhân dân huyện Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ xử phạt 42 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý (chấp hành xong án phạt tù ngày 10/02/2015).

- Ngày 05/5/2017 bị Toà án nhân dân thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang xử phạt 02 năm tù về tội Trộm cắp tài sản (ngày 28/11/2016, trộm cắp tài sản trị giá 4.503.100 đồng).

*Nhân thân: Ngày 08/9/2017 bị Toà án nhân dân huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang xử phạt 02 năm 03 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản.

Bị cáo đang thi hành án tại Trại giam Quyết Tiến - Tổng cục VIII - Bộ Công an theo Bản án số 55/2017/HSST ngày 05/5/2017 của Toà án nhân dân thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang (vào trại chấp hành án ngày 19/6/2017).

Có mặt tại phiên toà.

2. Họ và tên: Đặng Hồng Q, sinh ngày 02/7/1988 tại Tuyên Quang

Trú tại: Xóm 1, xã T, thành phố T, tỉnh T.

Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn 12/12; Con ông Đặng Văn B, sinh năm 1963 và bà Bùi Thuý N (đã chết); Vợ Nguyễn Thị H, sinh năm 1992; Con: Có 02, lớn sinh năm 2011, nhỏ sinh năm 2017; Tiền án, tiền sự: Không.

* Nhân thân:

- Ngày 02/9/2015 bị Toà án nhân dân thành phố Tuyên Quang xử phạt 06 tháng tù, cho hưởng án treo về tội Đánh bạc (tổng số tiền đánh bạc 2.135.000 đồng);

- Ngày 08/9/2017 bị Toà án nhân dân huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang xử phạt09 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản.

Bị cáo hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam - Công an tỉnh Tuyên Quang theo Bản án số 51/HSST ngày 08/9/2017 của Toà án nhân dân huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang.

Có mặt tại phiên tòa.

* Những người bị hại:

1. Anh Nguyễn Đăng K

Trú tại: tổ 1, phường H, thành phố T, tỉnh T.

2. Chị Nguyễn Thị L

Trú tại: tổ 2, phường M, thành phố T, tỉnh T. Anh K và chị L đều có đơn xin xét xử vắng mặt.

NHẬN THẤY

Các bị cáo Nguyễn Huy H, Đặng Hồng Q bị Viện kiểm sát nhân dân thành phốTuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang truy tố về hành vi phạm tội như sau:Ngày 16 và ngày 17/4/2017, trên địa bàn thành phố T, tỉnh T, Nguyễn Huy H và Đặng Hồng Q đã có hành vi trộm cắp tài sản, cụ thể:

Lần 1: Khoảng 21 giờ ngày 16/4/2017, Q và H rủ nhau đi trộm cắp hoa phong lan mang bán lấy tiền tiêu sài; khoảng 23 giờ cùng ngày Q điều khiển xe mô tô biển số 22S1 - 3994 chở H đến nhà anh Nguyễn Đăng K, trú tại tổ 1, phường H, thành phố T. Q dừng lại, mở yên xe lấy 01 kìm cán nhựa màu vàng đen, đưa cho H và chỉ chỗ treo hoa phong lan, Q đứng ngoài đường cảnh giới, còn H trèo lên mái tầng 1 nhà anh K, dùng kìm cắt dây treo của 03 giò phong lan Phi điệp hoa màu tím trắng, mang ra chỗ Q rồi đi về nhà. Sáng ngày 17/4/2017, Q đem hoa phong lan đến khu vực chợ P, thành phố T bán cho một người đàn ông không biết tên, địa chỉ với giá 1.000.000 đồng, Q đưa cho H 500.000 đồng. Số tiền còn lại, Q sử dụng chi tiêu cá nhân hết.

Tại kết luận số 61 ngày 08/6/2017 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Tuyên Quang, kết luận:

- Giò phong lan Phi điệp hoa màu tím trắng, có 06 nhánh, nhánh dài nhất 150 cm và có 07 mầm non, các nhánh còn lại có độ dài trung bình 90 cm, thân mập, lá xanh, không sâu bệnh, chưa ra hoa, giá trị của giò hoa là 762.000 đồng.

- Giò phong lan Phi điệp hoa màu tím trắng, có 08 nhánh, nhánh dài nhất 80 cm, thân mập, các nhánh đều có mầm, lá xanh không sâu bệnh, chưa ra hoa, giá trị của giò hoa là 1.016.000 đồng.

- Giò phong lan Phi điệp hoa màu tím trắng, có 07 nhánh, nhánh dài nhất 80 cm, thân mập, các nhánh đều có mầm, lá xanh không sâu bệnh, chưa ra hoa, giá trị của giò hoa là 889.000 đồng.

Tổng cộng giá trị 03 giò phong lan là 2.667.000 đồng.

Lần 2: Khoảng 21 giờ ngày 17/4/2017, H đang ở nhà thì Q gọi điện thoại rủ H đi trộm cắp hoa phong lan, H đồng ý và hẹn Q đêm sẽ cùng nhau đi trộm cắp. Khoảng 23 giờ cùng ngày, Q điều khiển mô tô biển số 22S1 - 3994 đến đón, chở H đến nhà chị Nguyễn Thị L, trú tại tổ 2, phường M, thành phố T, Q đưa cho H 01 chiếc kìm cắt và chỉ chỗ treo hoa phong lan, Q đứng ngoài đường cảnh giới, còn H trèo lên mái tầng 1 nhà chị L, dùng kìm cắt được 01 giò phong lan Phi điệp hoa màu tím đưa cho Q. Ngày 18/4/2017, Q đem phong lan ra khu vực chợ P bán cho một người không biết tên, địa chỉ được 600.000 đồng, Q đưa H 300.000 đồng, số tiền còn lại Q chi tiêu hết.

Tại kết luận số 61 ngày 08/6/2017 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự thành phố Tuyên Quang, kết luận: Giò phong lan Phi điệp hoa màu tím, có 15 nhánh, chiều dài trung bình các nhánh dài 50 cm, thân mập, chưa ra hoa, giá trị của giò hoa là 1.455.000 đồng.

Từ nội dung trên, tại bản Cáo trạng số 140/QĐ-KSĐT ngày 11 tháng 9 năm 2017, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tuyên Quang đã truy tố bị cáo Nguyễn Huy H, về tội Trộm cắp tài sản theo điểm c khoản 2 Điều 138 Bộ luật hình sự; Bị cáo Đặng Hồng Q về tội Trộm cắp tài sản theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, kết thúc phần xét hỏi Kiểm sát viên giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quyết định truy tố đối với các bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố các bị cáo Nguyễn Huy H, Đặng Hồng Q phạm tội Trộm cắp tài sản.

- Đề nghị áp dụng điểm c khoản 2 Điều 138; đoạn 1, đoạn 2 điểm p khoản 1 Điều 46; Điều 33 Bộ luật hình sự năm 1999, xử phạt bị cáo Nguyễn Huy H từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù, hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án.

- Đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 138; đoạn 1, đoạn 2 điểm p khoản 1 Điều 46; Điều 33 Bộ luật hình sự năm 1999 xử phạt bị cáo Đặng Hồng Q từ 07 đến 10 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án.

Đề nghị HĐXX áp dụng Điều 42 Bộ luật hình sự và các Điều tương ứng của Bộ luật dân sự buộc bị cáo H và bị cáo Q phải liên đới bồi thường cho người bị hại Nguyễn Đăng K số tiền 2.667.000đ và người bị hại Nguyễn Thị L số tiền 1.455.000đ.

Ngoài ra, kiểm sát viên còn đề nghị HĐXX không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) do các bị cáo không có tài sản và không có thu nhập; Đề nghị tuyên bị cáo phải chịu án phí; tuyên quyền kháng cáo cho các bị cáo và những người tham gia tố tụng theo quy định của pháp luật.

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, của bị cáo tại phiên toà.

XÉT THẤY

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo Nguyễn Huy H, Đặng Hồng Q tiếp tục khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với nội dung bản Cáo trạng đã truy tố. Hành vi phạm tội của các bị cáo còn được thể hiện qua biên bản khám nghiệm hiện trường; Lời khai của những người bị hại cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Từ các tài liệu, chứng cứ nêu trên có đủ cơ sở kết luận: Ngày 16 và 17/4/2017, trên địa bàn thành phố Tuyên Quang Nguyễn Huy H, Đặng Hồng Q đã có hành vi trộm cắp tài sản, cụ thể:

- Lần 1: Khoảng 21 giờ ngày 16/4/2017, tại tổ 1, phường H, thành phố T; Nguyễn Huy H, Đặng Hồng Q đã có hành vi trộm cắp 03 giò hoa phong lan Phi điệp hoa màu tím trắng, trị giá 2.667.000 đồng của anh Trần Đăng K.

- Lần 2: Khoảng 23 giờ ngày 17/4/2017, tại tổ 1, phường M, thành phố T; Nguyễn Huy H và Đặng Hồng Q đã có hành vi trộm cắp 01 giò hoa phong lan Phi điệp hoa màu tím, trị giá 1.455.000 đồng của chị Nguyễn Thị L.

Tổng cộng, Nguyễn Huy H và Đặng Hồng Q trộm cắp tài sản trị giá4.122.000đ (Bốn triệu một trăm hai mươi hai nghìn đồng).

Hành vi của các bị cáo Nguyễn Huy H và Đặng Hồng Q đã phạm vào tội Trộm cắp tài sản, tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 138 Bộ luật hình sự

Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu của người khác về tài sản, gây mất trật tự trị an tại địa phương và gây dư luận xấu trong xã hội. Trong vụ án này, các bị cáo phạm tội không có tổ chức mà thuộc trường hợp đồng phạm giản đơn, bị cáo Q là người khởi xướng, rủ bị cáo H, là người mang theo dụng cụ (kìm) và dùng xe mô tô để chở bị cáo H đi tìm tài sản trộm cắp, là người mang tài sản trộm cắp đi tiêu thụ còn bị cáo H là người trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội nên xác định bị cáo Q giữ vai trò chính, tiếp đến là bị cáo H.

Bị cáo Nguyễn Huy H hiện có 03 tiền án: Ngày 15/01/2009 bị Toà án nhân dân thị xã Tuyên Quang (nay là Thành phố Tuyên Quang) xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội Mua bán trái phép chất ma tuý; Ngày 14/6/2011, bị Toà án nhân dân huyện Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ xử phạt 42 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý (chấp hành xong án phạt tù ngày 10/02/2015; Ngày 05/5/2017, bị Toà án nhân dân thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang xử phạt 02 năm tù về tội Trộm cắp tài sản. Bị cáo Đặng Hồng Q có nhân thân xấu: Ngày 22/9/2015, bị Toà án nhân dân thành phố Tuyên Quang xử phạt 06 tháng tù cho hưởng án treo, thử thách 01 năm về tội Đánh bạc. Ngoài ra, ngày 08/9/2017 các bị cáo còn bị Toà án nhân dân huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang xử phạt: Nguyễn Huy H 02 năm 03 tháng tù, Đặng Hồng Q 09 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản (tài sản trộm cắp là 07 nhánh, giò hoa phong lan, tổng trị giá là 16.800.000đ), tại bản án này đã tổng hợp hình phạt tại bản án số 51 ngày 05/5/2017 của Toà án nhân dân thành phố Tuyên Quang đối với Nguyễn Huy H (bản án chưa có hiệu lực pháp luật).

Do vậy, HĐXX xét thấy cần có mức án nghiêm khắc tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội và nhân thân của các bị cáo nhằm giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung.

Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử thấy cần xem xét cho các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đó là: Quá trình điều tra và tại phiên toà đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại đoạn 1, đoạn 2 điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự.

Bị cáo Nguyễn Duy H là người đã bị kết án về tội Trộm cắp tài sản theo điểm c khoản 2 Điều 138 của Bộ luật hình sự, đến lần phạm tội này chưa được xoá án tích nên lần phạm tội này bị truy tố, xét xử theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 138 của Bộ luật hình sự năm 1999, thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm. Đối với bị cáo Đặng Hồng Q, ngày 22/9/2015 bị Toà án nhân dân thành phố Tuyên Quang xử phạt 06 tháng tù cho hưởng án treo, thử thách 01 năm về tội Đánh bạc (số tiền sử dụng vào việc đánh bạc là 2.135.000đ), theo quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 không bị coi là phạm tội nên lần phạm tội này bị truy tố, xét xử theo quy định tại khoản 1 Điều 138 của Bộ luật hình sự năm 1999.

*Về trách nhiện dân sự:

Anh Nguyễn Đăng K yêu cầu các bị cáo bồi thường số tiền 2.667.000 đồng; Chị Nguyễn Thị L yêu cầu các bị cáo bồi thường số tiền 1.455.000 đồng, hiện các bị cáo Nguyễn Huy H, Đặng Hồng Q chưa bồi thường.

Xét yêu cầu về dân sự của những người bị hại trong vụ án là có căn cứ nên buộc các bị cáo Nguyễn Duy H và Đặng Hồng Q phải liên đới bồi thường thiệt hại cho những người bị hại Nguyễn Đăng K và Nguyễn Thị L. Chia theo phần mỗi bị cáo phải: bồi thường cho anh Nguyễn Đăng K số tiền là (2.667.000đ : 2) = 1.333.500đ (Một triệu ba trăm ba mươi ba nghìn năm trăm đồng); Bồi thường cho chị Nguyễn Thị L số tiền là: (1.455.000đ : 2) = 727.500đ (Bẩy trăm hai mươi bẩy nghìn năm trăm đồng).

Đối với xe mô tô, biển số 22S1-3449 và kìm cắt là phương tiện, công cụ bị cáo Nguyễn Huy H và Đặng Hồng Q sử dụng vào việc phạm tội đã bị Cơ quan CSĐT Công an huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang thu giữ trong vụ án khác nên HĐXX không xem xét trong vụ án này.

Đối với những người mua hoa phong lan của Đặng Hồng Q tại khu vực chợ P, thành phố T do không xác định được họ tên, địa chỉ nơi ở nên không có căn cứ xác minh, điều tra.

Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Bị cáo, người bị hại có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Huy H, Đặng Hồng Q phạm tội "Trộm cắp tài sản"

1-Áp dụng điểm c khoản 2 điều 138; đoạn 1, đoạn 2 điểm p khoản 1 Điều 46; Điều 33 và Điều 53 của Bộ luật Hình sự

Xử phạt bị cáo Nguyễn Huy H 02 (Hai) năm 03 (Ba) tháng tù, hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án.

2- Áp dụng khoản 1 điều 138; đoạn 1, đoạn 2 điểm p khoản 1 Điều 46; Điều33; Điều 53 của Bộ luật Hình sự

Xử phạt bị cáo Đặng Hồng Q 08 (Tám) tháng tù, hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án.

3- Áp dụng Điều 42 của Bộ luật Hình sự và các Điều 584, 585, 586, 587, 589và Điều 357 của Bộ luật Dân sự

Buộc các bị cáo Nguyễn Huy H và Đặng Hồng Q phải liên đới bồi thường thiệt hại cho: anh Nguyễn Đăng K số tiền là 2.667.000đ (Hai triệu sáu trăm sáu mươi bẩy nghìn đồng); chị Nguyễn Thị L số tiền là 1.455.000đ (Một triệu bốn trăm năm mươi lăm nghìn đồng). Chia theo phần mỗi bị cáo phải: bồi thường cho anh Nguyễn Đăng K số tiền là 1.333.500đ (Một triệu ba trăm ba mươi ba nghìn năm trăm đồng); bồi thường cho chị Nguyễn Thị L số tiền là 727.500đ (Bẩy trăm hai mươi bẩy nghìn năm trăm đồng). Tổng cộng, mỗi bị cáo phải bồi thường cho những người bị hại là 2.061.000đ (Hai triệu không trăm sáu mươi mốt nghìn đồng).

Kể từ ngày người được thi hành án có đơn đề nghị thi hành án, bên có nghĩa vụ thi hành án chậm trả tiền thì còn phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả. Lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự.

4- Áp dụng các Điều 99, 231, 234 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016:

- Các bị cáo Nguyễn Huy H, Đặng Hồng Q mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

- Các bị cáo Nguyễn Huy H, Đặng Hồng Q được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

- Những người bị hại Nguyễn Đăng K, Nguyễn Thị L vắng mặt tại phiên toà được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành án theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

262
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 145/2017/HS-ST ngày 29/09/2017 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:145/2017/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Tuyên Quang - Tuyên Quang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/09/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về