Bản án 144/2019/HS-ST ngày 31/07/2019 về tội chứa mại dâm

A ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH CHÁNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 144/2019/HS-ST NGÀY 31/07/2019 VỀ TỘI CHỨA MẠI DÂM

Ngày 31 tháng 7 năm 2019 tại Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 128/2019/TLST- HS ngày 19 tháng 6 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 134/2019/QĐXXST-HS ngày 03 tháng 7 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 28/2019/HSST-QĐ ngày 17/7/2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Thị Mỹ L, sinh năm 1970, tại tỉnh Long An; Nơi thường trú: Số 38A đường số 31, Phường C, Quận D, Thành phố Hồ Chí Minh; Chỗ ở trước khi bị bắt: Không nơi cư trú nhất định; nghề nghiệp: Buôn bán; trình độ văn hoá (học vấn) 3/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Đ và bà Nguyễn Thị M1; bị cáo có chồng là ông Châu Tùng K và con là Châu Thành M2 sinh năm 1993; tiền án, tiền sự: không; nhân thân: tốt; bị bắt, tạm giam ngày 17/12/2018 (Có mặt)

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1/ Bà Võ Thị Tuyết P, sinh năm 1996; Địa chỉ: Số C1/25A Ấp 3, xã Đ, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh (Vắng mặt)

2/ Bà Trần Lê Thùy T, sinh năm 1990; Nơi thường trú: Khóm 3, Phường A, thị xã N, tỉnh Sóc Trăng; Tạm trú: E9/242 Ấp 5, xã Đ, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh (Vắng mặt)

3/ Ông Phạm Chí C, sinh năm 1986; Địa chỉ: Ấp A, xã A, huyện B, tỉnh Bến Tre (Vắng mặt)

4/ Ông Nguyễn Văn M, sinh năm 1969; Địa chỉ: Ấp B, xã T, huyện C, tỉnh Tiền Giang (Vắng mặt)

5/ Ông Nguyễn Văn R, sinh năm 1972; Địa chỉ: Nhà trọ không số, Tổ 7, Ấp 2, xã Đ, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh (Vắng mặt)

6/ Ông Phạm Văn U, sinh năm 1970; Địa chỉ: E9/242 Ấp 5, xã Đ, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh (Vắng mặt)

7/ Ông Nguyễn Thanh L1, sinh năm 1996; Địa chỉ: Ấp T, xã T, huyện C, tỉnh Long An (Vắng mặt)

8/ Bà Nguyễn Kim T1, sinh năm 1986; Địa chỉ: Số A11/21K1 Ấp 2, xã B, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh (Có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Năm 2006, bị cáo thuê của ông Phạm Công U căn nhà địa chỉ E9/242 Ấp 5, xã Đ, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh để mở quán bán cà phê. Do kinh doanh không có lợi nhuận nên bị cáo cho nhân viên nữ kích dục cho khách để tăng thêm thu nhập. Khoảng tháng 8/2018, Võ Thị Tuyết P và Trần Lê Thùy T bắt đầu làm việc tại quán của bị cáo và thỏa thuận với bị cáo về việc không nhận tiền lương nhưng mỗi lần kích dục cho khách được 120.000 đồng thì P và T hưởng 60.000 đồng, còn bị cáo hưởng 60.000 đồng, bị cáo đồng ý.

Đến tháng 11/2018, do hoàn cảnh khó khăn nên P và T đề nghị bị cáo được bán dâm cho khách tại quán của bị cáo và thỏa thuận mỗi lần bán dâm thì P và T mỗi người sẽ đưa cho bị cáo 100.000 đồng, bị cáo đồng ý.

Chiều tối ngày 17/12/2018, ông Phạm Chí C chở ông Nguyễn Văn M đến quán cà phê của bị cáo (địa chỉ E9/242 Ấp 5, xã Đ, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh). Khi vào quán, M và C ngồi uống nước thì T và P đến đề nghị mua bán dâm. Theo thỏa thuận T bán dâm cho M, P bán dâm cho C với giá 300.000 đồng một người. Sau đó, M và T vào căn phòng phía bên trong quán để tiến hành việc mua bán dâm. C và P vào căn phòng phía sau bên phải, tại đây C trả tiền mua dâm của hai người cho P là 600.000 đồng và cả hai người thực hiện hành vi mua bán dâm. Đội Cảnh sát Hình sự - Công an huyện Bình Chánh phối hợp với Công an xã Đ kiểm tra phát hiện nên đã lập biên bản phạm tội quả tang.

Quá trình điều tra, P và T khai nhận đã bán dâm cho rất nhiều người, trong đó, đã xác định chiều tối ngày 17/12/2018, P đã có hành vi bán dâm cho Nguyễn Văn R với giá 300.000 đồng. Sau khi bán dâm cho R, P đưa cho bị cáo 100.000 đồng.

Tại Cáo trạng số 112/CT-VKS ngày 03/5/2019, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh đã truy tố bị cáo về tội “Chứa mại dâm” theo Điểm c Khoản 2 Điều 327 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Đi với những người có hành vi mua dâm là Phạm Chí C, Nguyễn Văn M, Nguyễn Văn R và người có hành vi bán dâm Võ Thị Tuyết P, Trần Lê Thùy T đã bị Công an huyện Bình Chánh xử phạt hành chính theo quy định của pháp luật.

Trong phần tranh luận tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng Điểm c Khoản 2 Điều 327; Điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) xử phạt bị báo từ 06 đến 07 năm tù; phạt bổ sung bị cáo 10.000.000 đồng (Mười triệu đồng). Đồng thời, đề nghị xử lý vật chứng theo quy định.

Ti phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi chứa mại dâm phù hợp với nội dung cáo trạng đã được tóm tắt nêu trên, không tự bào chữa, không tranh luận và thể hiện sự thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đề nghị được giảm nhẹ hình phạt. Đồng thời, bị cáo và bà T1 thỏa thuận để bà T1 được nhận lại số tiền 9.400.000 đồng (Chín triệu, bốn trăm nghìn đồng) mà cơ quan điều tra đã thu giữ của bị cáo.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và bà Nguyễn Kim T1,

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Bình Chánh, điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Thị Mỹ L khai nhận: Bị cáo đã cho người bán dâm và người mua dâm thực hiện hành vi mua bán dâm tại nơi bị cáo thuê kinh doanh quán cà phê ở địa chỉ E9/242 Ấp 5, xã Đ, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh được khoảng 01 tháng nhằm mục đích thu lợi.

Chiều ngày 17/12/2018 bị cáo cho Võ Thị Tuyết P bán dâm cho ông Nguyễn Văn R và được P chia lại 100.000 đồng từ tiền bán dâm. Đến tối ngày 17/12/2018 bị cáo lại tiếp tục cho Võ Thị Tuyết P, Trần Lê Thùy T thực hiện hành vi bán dâm cho ông Phạm Chí C, ông Phạm Văn M thì bị bắt quả tang.

Cho đến ngày bị bắt, bị cáo đã thu lợi được 10.000.000 đồng (Mười triệu đồng) từ việc chứa mại dâm và đã tiêu xài hết.

Li khai nhận nhận tội của bị cáo tại phiên tòa, trong quá trình điều tra và lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án phù hợp với nhau; phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác thu thập được trong hồ sơ vụ án. Như vậy, hành vi này của bị cáo đã phạm tội “Chứa mại dâm” theo Điểm c Khoản 2 Điều 327 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) như Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh đã truy tố là đúng người, đúng tội.

[3] Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp, sử dụng căn nhà thuê thuộc sự quản lý, sử dụng hợp pháp của mình chứa chấp người khác thực hiện hành vi mua, bán dâm. Động cơ phạm tội là nhằm thu lợi bất chính. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến thuần phong, mỹ tục, đến đời sống văn hóa và trật tự công cộng; gây ảnh hưởng đến tình hình trật tự, an ninh xã hội tại địa phương. Vì vậy, cần có mức án nghiêm khắc đối với bị cáo để đủ tác dụng răn đe, giáo dục, phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo phạm tội lần đầu và có nhân thân tốt. Do đó, Hội đồng xét xử áp dụng Điểm s Khoản 1 và Khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (đã sửa đổi, bổ sung năm 2017) để xem xét, giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt.

[5] Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt chính, xét thấy cần áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về số tiền thu lợi bất chính: Bị cáo phải nộp lại số tiền 10.000.000 đồng (Mười triệu đồng) đã thu lợi từ việc chứa mại dâm.

[7] Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa 05/6/2019, Bị cáo đã khai nhận: Bị cáo là cô ruột của Nguyễn Thanh L1 và cho L1 ở nhờ tại quán cà phê được khoảng 10 ngày trước ngày bị cáo bị bắt. Khi L1 mới đến thì bị cáo, P và T có nói cho L1 biết là bị cáo có cho P, T thực hiện hành kích dục và bán dâm khách nam. Trong thời gian L1 ở nhờ, do phải đi về quê 02 ngày nên bị cáo nhờ L1 quản lý quán và thu tiền từ P, T sau khi P, T thực hiện hành vi bán dâm cho khách. Sau đó, L1, P và T đã thực hiện đúng theo yêu cầu của bị cáo.

Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của L1, P tại Bút lục số 82, 83, 92 và 93 trong hồ sơ vụ án.

Hi đồng xét xử đã trả hồ sơ điều tra bổ sung yêu cầu làm rõ vai trò đồng phạm của L1 nhưng Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh vẫn giữ nguyên quan điểm không xem xét trách nhiện hình sự đối với L1.

[8] Đối với ông Nguyễn Văn U là người cho bị cáo thuê nhà. Tuy nhiên, ông U không biết việc bị cáo sử dụng địa điểm thuê này để thực hiện hành vi chứa mại dâm nên không có cơ sở để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với ông.

[9] Đối với Võ Thị Tuyết P và Trần Lê Thùy T và những người mua dâm là Phạm Chí C, Phạm Văn M và Nguyễn Văn R đã bị xử lý hành chính về hành vi mua, bán dâm nên Hội đồng xét xử không xét.

[10] Về xử lý vật chứng vụ án:

[10.1] 01 (Một) bao cao su đã qua sử dụng, 01 (Một) bao cao su chưa qua sử dụng, thu giữ tại nơi P và C mua bán dâm;

[10.2] 01 (Một) bao cao su đã qua sử dụng thu giữ tại nơi T và M mua bán dâm;

[10.3] 16 (Mười sáu) bao cao su đã qua sử dụng, 18 (Mười tám) vỏ bao cao su đã qua sử dụng, 01 (Một) vỏ hộp bao cao su đã qua sử dụng thu giữ tại sọt rác phía sau quán;

Các vật chứng này có liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo, không còn sử dụng được nên tịch thu và tiêu hủy theo quy định tại Điểm c Khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

[10.4] Số tiền 1.160.000 đồng (Một triệu, một trăm mười sáu nghìn đồng) tạm giữ từ P, trong đó xác định:

- 800.000 (Tám trăm nghìn đồng) là tiền bán dâm của P và T. Đây là vật chứng có liên quan đến hành vi phạm tội nên cần tịch thu, nộp ngân sách nhà nước theo quy định tại Điểm b Khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 (đã sửa đổi, bổ sung năm 2017).

- 360.000 đồng (Ba trăm sáu mươi nghìn đồng). Cơ quan điều tra đã trả lại cho P nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[10.5] Số tiền 4.380.000 đồng (Bốn triệu, ba trăm tám mươi nghìn đồng) tạm giữ từ T. Cơ quan điều tra đã trả lại cho T nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[10.6] Số tiền 9.500.000 đồng (Chín triệu, năm trăm nghìn đồng) tạm giữ của bị cáo, trong đó xác định:

- Số tiền 100.000 đồng (Một trăm nghìn đồng) là tiền P trích ra từ khoản tiền bán dâm cho ông R chia cho bị cáo. Đây là do phạm tội mà có nên tịch thu, nộp ngân sách nhà nước theo quy định tại Điểm b Khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 (đã sửa đổi, bổ sung năm 2017).

- Số tiền 9.400.000 đồng (Chín triệu, bốn trăm nghìn đồng) là tiền bị cáo vay của bà Nguyễn Kim T1 để chi xài cá nhân. Bà T1 yêu cầu được nhận lại số tiền này và bị cáo cũng đồng ý. Xét thấy, khoản tiền này không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo nên Hội đồng xét xử chấp nhận trả lại cho bà T1.

[11] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Thị Mỹ L phạm tội “Chứa mại dâm”.

1. Căn cứ vào Điểm c Khoản 2 và Khoản 5 Điều 327; Điểm s Khoản 1 và Khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thị Mỹ L 06 (sáu) năm, 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 17/12/2018.

Phạt bổ sung bị cáo số tiền: 10.000.000 đồng (Mười triệu đồng) để sung quỹ nhà nước.

2. Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015:

2.1. Tịch thu và tiêu hủy:

- 01 bao cao su đã qua sử dụng, 01 bao cao su chưa qua sử dụng;

- 01 bao cao su đã qua sử dụng thu giữ tại nơi T và M mua bán dâm;

- 16 (Mười sáu) bao cao su đã qua sử dụng, 18 (Mười tám) vỏ bao cao su đã qua sử dụng, 01 (Một) vỏ hộp bao cao su đã qua sử dụng.

2.2. Buộc bị cáo nộp lại số tiền thu lợi bất chính 10.000.000 đồng (Mười triệu đồng).

2.3 Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước:

- 800.000 đồng (Tám trăm nghìn đồng) thu giữ từ P.

- 100.000 đồng (Một trăm nghìn đồng) thu giữ từ bị cáo.

2.4 Trả lại cho bà Nguyễn Kim T1: 9.400.000 đồng (Chín triệu, bốn trăm nghìn đồng).

c vật chứng đang giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bình Chánh theo Quyết định chuyển vật chứng số 74/QĐ-VKS ngày 18/4/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh; Biên lai thu tiền số AA/2016/0005009 ngày 27/5/2019 và Biên bản giao nhận vật chứng ngày 27/5/2019 giữa Công an huyện Bình Chánh và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bình Chánh.

3. Căn cứ vào các Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Luật phí và lệ phí; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Bị cáo chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng).

4. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 được sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 được sửa đổi, bổ sung năm 2014.

5. Quyền kháng cáo:

Trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án (31/7/2019), bị cáo, bà T1 được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm đến Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

277
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 144/2019/HS-ST ngày 31/07/2019 về tội chứa mại dâm

Số hiệu:144/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Chánh - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về