Bản án 142/2020/HSST ngày 10/09/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN GÒ VẤP – THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 142/2020/HSST NGÀY 10/09/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 10 tháng 9 năm 2020 tại Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh mở phiên toà xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 146/2020/HSST ngày 21 tháng 8 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 161/2020/QĐXXST-HS ngày 31 tháng 8 năm 2020 đối với bị cáo:

Võ Lê Anh H; giới tính: Nam, sinh năm 1977 tại Tp. Hồ Chí Minh; Hộ khẩu thường trú và nơi cư trú: Số 312/2 Tô Ngọc Vân, phường TH1 Xuân, quận 12, Tp. Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 12/12; Quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Thiên chúa; Con ông Võ Thành Hưng (sinh năm 1950) và bà Lê Thị T (sinh năm 1949); Hoàn cảnh gia đình: chưa có vợ con; Tiền án:

01; Ngày 11/10/2019 bị Công an quận 2, thành phố Hồ Chí Minh bắt về tội “ Trộm cắp tài sản, ngày 5/3/2020 Tòa án nhân dân quận 2, thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 01 năm tù giam (Bản án số 13/2020/HSST, ngày 5/3/2020, chưa chấp hành án); Tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 23/10/2018 có hành vi “ Trộm cắp tài sản” bị Công an quận Bình TH1, thành phố Hồ Chí Minh bắt và xử phạt vi phạm hành chính 1.500.000 đồng; Ngày 26/5/2015 có hành vi “ Trộm cắp tài sản” bị Công an quận Gò Vấp, thành phố Hồ Chí Minh bắt và xử phạt vi phạm hành chính; Ngày 12/4/2006 bị Tòa án nhân dân quận Bình TH1, thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 02 năm tù giam về tội “ Trộm cắp tài sản” (Bản án số 56/HSST), chấp hành án tại trại giam Tống Lê Chân, tỉnh Bình Phước đến ngày 29/9/2007 chấp hành xong; Ngày 4/4/2009 bị Tòa án nhân dân quận 10, thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 02 năm tù giam về tội “ Trộm cắp tài sản” (Bản án số 111/HSST), chấp hành án tại trại giam Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai đến ngày 4/01/2011 chấp hành xong. Bị cáo bị bắt và tạm giam ngày 07/5/2020 (Có mặt).

Bị hại :

- Bà Nguyễn Thị H1, sinh năm 1995; Trú tại: 850/33 Nguyễn Văn Lượng, Phường 17, quận Gò Vấp, Tp. Hồ Chí Minh (vắng mặt) Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Bà Lê Thị T, sinh năm 1949; Trú tại: Số 312/2 Tô Ngọc Vân, phường TH1 Xuân, quận 12, Tp. Hồ Chí Minh (có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

 Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 21 giờ 30 ngày 27/4/2020, Võ Lê Anh H điều khiển xe gắn máy biển số: 51S3-2918 đến cửa hàng tiện lợi Vinmart địa chỉ 06 Trần Thị Nghĩ, Phường 7, quận Gò Vấp do Nguyễn Thị H1 là cửa hàng trưởng. Tại đây, lợi dụng sơ hở của nhân viên cửa hàng, H lấy trộm 03 chai dầu gội đầu (trong đó 02 chai hiệu Xmen fine 650g, 01 chai hiệu Clear 650g) giấu vào trong người rồi ra ngoài lên xe tẩu thoát. H mang 03 chai dầu gội đầu đến một tiệm mỹ phẩm trên đường Lê Đức Thọ, Phường 6, quận Gò Vấp (không xác định được địa chỉ) bán được 240.000đ (hai trăm bốn mươi nghìn đồng) tiêu xài cá nhân hết. Sau khi phát hiện bị mất trộm tài sản, H1 cùng nhân viên kiểm tra camera, phát hiện và ghi nhớ đặc điểm của người lấy trộm tài sản nhưng không trình báo.

Đến khoảng 09 giờ, ngày 02/5/2020 H tiếp tục điều khiển xe gắn máy biển số 51S3-2918 đến cửa hàng tiện lợi nêu trên để trộm cắp tài sản nhưng chưa lấy được tài sản thì bị chị Nguyễn Thị Thùy Trang ( là nhân viên cửa hàng) phát hiện có đặc điểm giống người lấy trộm tài sản vào ngày 27/4/2020 nên giữ lại, H bỏ chạy tẩu thoát để lại chiếc xe gắn máy. Chị Trang trình báo và giao nộp chiếc xe gắn máy biển số: 51S3-2918 cho Công an Phường 7, quận Gò Vấp để giải quyết.

Qua rà soát, ngày 06/5/2020, Công an Phường 7, quận Gò Vấp mời làm việc được với Võ Lê Anh H và H khai nhận hành vi phạm tội như nêu trên. Sau đó Công an Phường 7 bàn giao hồ sơ cùng đối tượng cho Cơ quan Cảnh sát điều tra. Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra, H thừa nhận hành vi trộm cắp như trên.

Vật chứng vụ án:

- 02 chai dầu gội đầu hiệu Xmen fine Active 650g; 01 chai dầu gội hiệu Clear Men 650g (không thu hồi được). Tại bản kết luận định giá tài sản số 202/KL, ngày 31/7/2020 thì 03 chai dầu gội đầu này có giá trị là: 479.000 đồng (bốn trăm bảy mươi chín ngàn đồng). Ngày 31/7/2020 bà Lê Thị T ( mẹ của Võ Lê Anh H) tự nguyện thỏa thuận bồi thường số tiền 487.000 đồng ( theo báo giá của cửa hàng), chị Nguyễn Thị H1 đại diện cửa hàng nhận lại số tiền tương đương giá trị tài sản mà H đã lấy trộm, chị không có thắc mắc khiếu nại gì thêm (BL:

105,106,106D,106E).

- 01 xe gắn máy biển số 51S3-2918; số máy ZS150FMG – 2*22201885*; số khung LZ8WCPLL1Y6D01885 là phương tiện Võ Lê Anh H đi trộm cắp tài sản.

Qua xác minh xe này do Võ Lê Anh H đứng tên chủ sở hữu. Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an quận Gò Vấp đã nhập kho vật chứng theo phiếu nhập kho số 132/PNK, ngày 29/5/2020.

Riêng đối với 01USB ghi nhận hình ảnh Võ Lê Anh H trộm cắp tài sản. Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an quận Gò Vấp chuyển theo hồ sơ vụ án.

Tại bản cáo trạng số 146/Ctr-VKS, ngày 19/8/2020 của Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp đã truy tố bị cáo Võ Lê Anh H về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm b khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Võ Lê Anh H đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như kết luận điều tra và cáo trạng truy tố.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp sau khi phân tích nội dung vụ án, những tính chất và hậu quả của vụ án đối với xã hội, các tình tiết định tội, định khung hình phạt, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thì vẫn giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khỏan 1 Điều 173, điểm b, s khỏan 1 Điều 51, Điều 38, Điều 56 Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi bổ sung năm 2017.

- Xử phạt bị cáo Võ Lê Anh H mức án từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù. Tổng hợp hình phạt 01 năm tù với Bản án số 13/2020/HSST, ngày 5/3/2020 của Tòa án nhân dân Quận 02. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung là 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù.

- Miễn phạt bổ sung cho bị cáo.

- Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 xe gắn máy biển số 51S3-2918; số máy ZS150FMG – 2*22201885*; số khung LZ8WCPLL1Y6D01885 - Tịch thu lưu kèm hồ sơ vụ án 01 USB Qua ý kiến luận tội của đại diện Viện kiểm sát bị cáo nhất trí và không có ý kiến tranh luận gì, lời nói sau cùng bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an quận Gò Vấp, Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Qúa trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Lời khai của bị cáo hoàn toàn phù hợp với lời khai người bị hại, lời khai của người làm chứng, cùng với tang vật đã thu giữ, phù hợp với kết luận điều tra của cơ quan Công an quận Gò Vấp, với bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp và với các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Tài sản bị cáo trộm cắp có giá trị 479.000 đồng. Mặc dù tài sản bị cáo chiếm đoạt chưa đủ định lượng cấu thành tội phạm nhưng bị cáo đã bị xử phạt về hành vi “ trộm cắp tài sản” chưa chấp hành nay lại phạm tội do cố ý. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy có đủ cơ sở pháp lý để cho rằng hành vi của Võ Lê Anh H đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung như Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp đã truy tố.

[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Lợi dụng sự sơ hở mất cảnh giác của người bị hại, bị cáo cố ý lén lút chiếm đoạt tài sản của bị hại, điều đó cho thấy bị cáo rất xem thường pháp luật. Hành vi của bị cáo đã xâm hại đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của người khác được Pháp luật và Nhà nước bảo hộ. Mặt khác, còn gây ảnh hưởng tác động xấu đến tình hình trật tự trị an xã hội và trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo chỉ vì muốn có tiền tiêu xài phục vụ cho những nhu cầu cá nhân mà không phải thông qua lao động chân chính nên đã thực hiện hành vi phạm tội.

Bị cáo là người có nhân thân xấu và đã từng bị xử phạt về hành vi “ Trộm cắp tài sản” tuy chưa chấp hành, bị cáo lại tiếp tục phạm tội xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác. Do tài sản chiếm đoạt lần này có giá trị thấp hơn 2.000.000 đồng nên không áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là tái phạm theo điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự đối với bị cáo nên cần thiết phải xử lý nghiêm, Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để giáo dục cải tạo bị cáo đồng thời cũng nhằm mục đích phòng ngừa tội phạm chung cho xã hội.

[4] Tuy nhiên, khi lượng hình cần xem xét cho bị cáo một số tình tiết: Tại cơ quan điều tra cũng như qua diễn biến phiên tòa hôm nay bị cáo đã thật thà khai báo, thành khẩn nhận tội, gia đình bị cáo đã tự nguyện khắc phục bồi thường cho bị hại nên Hội đồng xét xử áp dụng điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự để xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Do bị cáo đã bị xử phạt 01 năm tù giam về hành vi “ Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 13/2020/HSST ngày 5/3/2020 Tòa án nhân dân quận 2, thành phố Hồ Chí Minh, bị cáo chưa chấp hành án mà lại thực hiện hành vi phạm tội mới nên áp dụng Điều 56 Bộ luật Hình sự để tổng hợp hình phạt chung đối với bị cáo.

[5] Về hình phạt bổ sung quy định tại khoản 5 Điều 173 của Bộ luật hình sự, Hội đồng xét xử xét tính chất vụ án và hoàn cảnh của bị cáo nên miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

[6] Về trách nhiệm dân sự : Tại phiên tòa, bị hại chị Nguyễn Thị H1 vắng mặt nhưng qua hồ sơ thể hiện người bị hại đã được bà Lê Thị T là mẹ ruột của bị cáo bồi thường số tiền 487.000 đồng giá trị 03 chai dầu gội bị chiếm đoạt và không có yêu cầu gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Tại phiên tòa, bà Lê Thị T xác định số tiền bồi thường cho chị H1 là của bà, bà cho luôn bị cáo số tiền này không yêu cầu bị cáo trả lại nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Về xử lý vật chứng:

- 02 chai dầu gội đầu hiệu Xmen fine Active 650g; 01 chai dầu gội hiệu Clear Men 650g (không thu hồi được) nên Hội đồng xét xử không xem xét - 01 xe gắn máy biển số 51S3-2918; số máy ZS150FMG – 2*22201885*; số khung LZ8WCPLL1Y6D01885. Qua xác minh xe này do Võ Lê Anh H đứng tên chủ sở hữu. Bị cáo đã sử dụng chiếc xe làm phương tiện đi trộm cắp tài sản nên Hội đồng xét xử quyết định tịch thu sung quỹ Nhà nước.

- Đối với 01USB ghi nhận hình ảnh Võ Lê Anh H trộm cắp tài sản. Xét, đây là vật chứng vụ án nên Hội đồng xét xử quyết định tịch thu lưu kèm hồ sơ vụ án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Võ Lê Anh H phạm tội “ Trộm cắp tài sản ”:

Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 56 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi bổ sung năm 2017:

Xử phạt bị cáo Võ Lê Anh H 01 (một) năm tù. Tổng hợp hình phạt 01 (một) năm tù theo Bản án số 13/2020/HSST ngày 5/3/2020 của Tòa án nhân dân quận 2, thành phố Hồ Chí Minh. Hình phạt chung buộc bị cáo phải chấp hành là 02 (hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 07/5/2020 Áp dụng Điều 46, 47 Bộ luật Hình sự và khỏan 1, 2, 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 xe gắn máy biển số 51S3-2918; số máy ZS150FMG – 2*22201885*; số khung LZ8WCPLL1Y6D01885 (Theo Phiếu nhập kho vật chứng số 132/PNK ngày 29/5/2020 của Công an quận Gò Vấp) - Tịch thu lưu kèm hồ sơ vụ án 01 USB Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 ; Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13, ngày 25/11/2015 của Quốc Hội và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án:

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng.

Nộp tại cơ quan Thi hành án dân sự có thẩm quyền.

Bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày tính kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt thời hạn kháng cáo là 15 ngày kể từ ngày được tống đạt hợp lệ bản án.

Căn cứ Điều 26 của Luật Thi hành án dân sự năm 2008:

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 của Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

275
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 142/2020/HSST ngày 10/09/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:142/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Gò Vấp - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về