Bản án 142/2019/DS-PT ngày 15/10/2019 về tranh chấp hợp đồng mua bán

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẬU GIANG

BẢN ÁN 142/2019/DS-PT NGÀY 15/10/2019 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN

Trong ngày 15 tháng 10 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hậu Giang xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 129/2019/TLPT-DS ngày 22 tháng 8 năm 2019 về việc “Tranh chấp hợp đồng mua bán”.

Do bản án dân sự sơ thẩm số 02/2019/DS-ST ngày 17/04/2019 của Toà án nhân dân huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 201/2019/QĐPT-DS ngày 29 tháng 8 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa phúc thẩm số 81/2019/QĐ-PT ngày 17 tháng 9 năm 2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Dương Thị Thu T, sinh năm 1968 (có mặt)

Địa chỉ: Ấp A, xã B, huyện C, tỉnh Hậu Giang.

2. Bị đơn: Ông Nguyễn Văn P, sinh năm 1996 (Vắng mặt)

Địa chỉ: Ấp A, xã B, huyện C, tỉnh Hậu Giang.

3. Người làm chứng:

3.1. Bà Bùi Thị G, sinh năm 1959 (Vắng mặt)

3.2. Ông Trần Thanh Q, sinh năm 1984 (Vắng mặt)

3.3. Bà Nguyễn Thị Kim K, sinh năm 1987 (Có mặt)

Cùng địa chỉ: Ấp A, xã B, huyện C, tỉnh Hậu Giang.

4. Người kháng cáo: Ông Nguyễn Văn P là bị đơn trong vụ án.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo bản án sơ thẩm và các tài liệu có trong hồ sơ thì nội dung vụ án như sau:

Trong đơn khởi kiện và quá trình tố tụng tại Tòa án, nguyên đơn bà Dương Thị Thu T trình bày: Vào các ngày 24/4/2018 đến ngày 06/5/2018 ông Nguyễn Văn P đã nhiều lần đến cửa hàng của bà để mua vật liệu xây dựng cũng như yêu cầu bơm cát san lắp 02 con mương ngay tại nhà ông Nguyễn Văn P tại ấp A, xã B, huyện C, tỉnh Hậu Giang với các đợt hàng ngày 24/4/2018 với số tiền là 105.000.000 đồng, tiền hàng đợt 02 ngày 25/4/2018 với số tiền 10.170.000đồng; tiền hàng đợt 03 ngày 26/4/2018 với số tiền là 950.000đồng; tiền hàng đợt 4 ngày 01/5/2018 với số tiền 12.120.000đồng; đợt 5 ngày 06/5/2018 với số tiền là 4.615.000đồng và 5.024.000đồng; tổng cộng số tiền là 137.879.000đồng, các lần giao ông P có ký nhận hàng. Bà đã nhiều lần đến gia đình ông P yêu cầu trả số tiền trên nhưng ông P không thực hiện nên bà khởi kiện yêu cầu ông Nguyễn Văn P phải có trách nhiệm trả cho bà số tiền tổng cộng là 137.879.000đồng, không yêu cầu tính lãi.

Tại biên bản hòa giải bị đơn ông Nguyễn Văn P trình bày: Ông không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của bà T, vì ông không có đứng ra mua vật liệu xây dựng của bà T mà do bạn ông là ông Nguyễn Văn H đứng ra mua để xây dựng nhà ở và san lắp mương cho gia đình ông, do thấy gia đình ông có hoàn cảnh khó khăn, ông chỉ là người ký tên vào hóa đơn để xác nhận khối lượng chứ không có đứng ra mua hàng, chữ ký trong các hóa đơn hàng ngày 24/4/2018 với số tiền là 105.000.000 đồng, tiền hàng đợt 02 với số tiền 10.170.000đồng ngày 25/4/2018; tiền hàng đợt 03 ngày 26/4/2018 với số tiền là 950.000đồng; tiền hàng đợ 4 ngày 01/5/2018 với số tiền 12.120.000đồng; đợt 5 ngày 06/5/2018 với số tiền là 4.615.000đồng và 5.024.000đồng là do ông ký nhận, số vật liệu này đúng là giao cho ông và sử dụng để san lắp 02 cái mương của gia đình và xây cất nhà của gia đình ông nhưng ông không có mua vật liệu xây dựng như bà T khởi kiện.

Đi với bạn ông là Nguyễn Văn H thì hiện nay ông không liên lạc được và cũng không biết năm sinh, địa chỉ cụ thể là gì, ở đâu. Ông và ông H là bạn bè quen nhau khoản 01 năm tại Sài Gòn, không có bà con gì, lúc đó ông có dẫn ông H về nhà chơi, do thấy hoàn cảnh khó khăn nên H nói sẽ đứng ra lo cất nhà mới lại cho gia đình ông, ông đồng ý nên mới đưa H đi đến cơ sở của bà T mua, ông H có nói là sẽ đứng ra chịu tất cả chi phí xây dựng.

Tại bản án dân sự sơ thẩm số 02/2019/DS-ST ngày 17 tháng 4 năm 2019 của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang tuyên xử như sau:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn bà Dương Thị Thu T.

Ghi nhận sự tự nguyện của ông Nguyễn Văn P trả cho bà Dương Thị Thu T số tiền còn nợ là 137.879.000đ (một trăm ba mươi bảy triệu tám trăm bảy mươi chín nghìn), bà T không yêu cầu tính lãi.

Kể từ ngày nguyên đơn có đơn yêu cầu thi hành án nếu bị đơn chậm trả số tiền thì hàng tháng còn phải trả cho nguyên đơn số tiền lãi chậm trả tương ứng với số tiền và thời gian chậm trả tại thời điểm thanh toán, lãi suất được áp dụng theo quy định tại Điều 357 Bộ luật dân sự 2015.

Ngoài ra bản án còn tuyên về án phí dân sự sơ thẩm; quyền kháng cáo và quyền yêu cầu thi hành án của đương sự.

Ngày 24 tháng 4 năm 2019, bị đơn ông Nguyễn Văn P kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm. Nội dung kháng cáo: Hiện nay hoàn cảnh của ông khó khăn nên ông không có đủ tiền để trả toàn bộ số nợ 137.879.000 đồng cho bà T.

Ti phiên tòa phúc thẩm lần thứ hai, bị đơn vắng mặt nhưng có đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.

Đi diện Viện kiểm sát phát biểu: từ giai đoạn thụ lý đến khi đưa vụ án ra xét xử Tòa án cấp phúc thẩm đã tuân thủ các quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Về nội dung vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn và áp dụng khoản 1 Điều 308 của Bộ luật tố tụng dân sự, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật: Nguyên đơn bà Dương Thị Thu T cho rằng bị đơn ông Nguyễn Văn P đã nhiều lần đến cửa hàng của bà để mua vật liệu xây dựng với tổng cộng số tiền là 137.879.000đồng, bà đã nhiều lần yêu cầu ông P trả số tiền trên nhưng ông P không thực hiện. Do đó, cấp sơ thẩm thụ lý giải quyết theo quan hệ pháp luật “Tranh chấp hợp đồng mua bán” là có căn cứ, đúng thẩm quyền.

[2] Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 24 tháng 4 năm 2019, bị đơn ông Nguyễn Văn P kháng cáo là đúng theo quy định tại các Điều 271, 272, 273 của Bộ luật tố tụng dân sự nên được chấp nhận xét xử theo trình tự phúc thẩm.

[3] Về tố tụng: Tại phiên tòa vắng bị đơn ông Nguyễn Văn P. Xét thấy ông P đã có đơn xin xét xử vắng mặt, căn cứ Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt ông P.

[4] Xét kháng cáo của bị đơn ông Nguyễn Văn P, Hội đồng xét xử xét thấy:

Căn cứ vào các hóa đơn bán lẻ trong thời gian từ ngày 24/4/2018 đến ngày 06/5/2018 thì ông Nguyễn Văn P đã nhiều lần mua vật liệu xây dựng phục vụ cho việc san lắp 02 con mương và xây dựng nhà cho ông P tại ấp A, xã B, huyện C, tỉnh Hậu Giang. Cụ thể với các đợt hàng ngày 24/4/2018 với số tiền là 105.000.000 đồng, tiền hàng đợt 02 với số tiền 10.170.000đồng ngày 25/4/2018; tiền hàng đợt 03 ngày 26/4/2018 với số tiền là 950.000đồng; tiền hàng đợt 4 ngày 01/5/2018 với số tiền 12.120.000đồng; đợt 5 ngày 06/5/2018 với số tiền là 4.615.000đồng và 5.024.000đồng cùng ngày; tổng cộng số tiền là 137.879.000đồng.

Do ông P không thực hiện nghĩa vụ trả tiền cho bà T nên nay bà T khởi kiện yêu cầu ông P trả số tiền là 137.879.000đồng. Ông P cho rằng ông không có mua vật liệu xây dựng của cửa hàng bà T mà do bạn ông là ông Nguyễn Văn H mua nên ông không đồng ý trả số tiền 137.879.000đồng cho bà T. Xét lời trình bày của ông P là không có căn cứ. Bởi lẽ, tại các biên bản lấy lời khai và tại phiên tòa sơ thẩm ông P đều thừa nhận có ký tên vào các hóa đơn bán lẻ ngày 24/4/2018, ngày 25/4/2018; ngày 26/4/2018, ngày 01/5/2018, ngày 06/5/2018 của cửa hàng vật liệu xây dựng Ngọc Yến do bà T làm chủ, ông P cũng xác định có nhận các loại vật liệu như cát, đá, xi măng và nhận đúng khối lượng theo các hóa đơn trên và ông là người trực tiếp nhận.

Đồng thời, ông cũng thừa nhận số vật liệu xây dựng này dùng để xây cất nhà ở và san lắp mương của nhà ông và hiện nay gia đình ông đang ở trong căn nhà mới xây dựng này. Hơn nữa, lời khai của người làm chứng ông Trần Thanh Q (Bút lục số 32) và bà Bùi Thị G (Bút lục số 31) cũng xác nhận ông P là người thuê ông Q làm sân, cất nhà và vật liệu dùng để xây dựng là do cửa hàng của bà T cung cấp. Đối chiếu với lời khai bà T là hoàn toàn phù hợp.

Đi với việc ông P cho rằng ông Nguyễn Văn H có thỏa thuận với ông là cất nhà cho gia đình ông ở và đã trả xong toàn bộ tiền vật liệu xây dựng cho bà T nhưng ông P không cung cấp được giấy tờ chứng minh và cũng không được phía bà T thừa nhận đã trả tiền xong nên không có cơ sở xem xét kháng cáo này của ông P.

Mặt khác, trong quá trình giải quyết vụ án, cấp sơ thẩm có yêu cầu ông P cung cấp chính xác họ tên, năm sinh, địa chỉ cư trú của ông H. Ông P xác định ông H có họ tên đầy đủ là Nguyễn Văn H, sinh năm 1993; quê quán ở N, nơi ở thường trú là số 88/356, T, Phường M, Quận X, thành phố Hồ Chí Minh và ông đã có đến địa chỉ nêu trên nhiều lần để tìm ông Nguyễn Văn H để làm rõ về việc mua bán này nhưng ông H không còn thuê nhà ở địa chỉ này nữa và hiện tại ông cũng không có liên lạc được với người tên Nguyễn Văn H. Ông P cũng không có giấy tờ gì chứng minh về người có tên H và địa chỉ này là có chính xác hay không và ông P cũng không cung cấp được địa chỉ nào khác.

Ti phiên tòa sơ thẩm (Bút lục số 42) ông P thừa nhận có nợ bà T số tiền137.879.000đồng và đồng ý trả nên cấp sơ thẩm buộc ông P trả toàn bộ số tiền mua vật liệu xây dựng cho bà Dương Thị Thu T là 137.879.000 đồng và do bà T không yêu cầu tính lãi nên cấp sơ thẩm không đặt ra xem xét là có căn cứ.

[5] Ông P kháng cáo cho rằng hiện nay hoàn cảnh của ông khó khăn nên ông không có đủ tiền để trả toàn bộ số nợ 137.879.000 đồng cho bà T là không có căn cứ. Bởi vì, ông P đã thừa nhận có mua và sử dụng vật liệu xây dựng của cửa hàng bà T để phục vụ cho việc san lắp mương và xây dựng căn nhà của ông thì ông phải có nghĩa vụ thanh toán cho bà T theo đúng số tiền mà ông P đã ký nhận trong các hóa đơn bán lẻ từ ngày 24/4/2018 đến ngày 06/5/2018.

[6] Về án phí dân sự sơ thẩm: Tại phần Quyết định của bản án sơ thẩm, cấp sơ thẩm buộc ông Nguyễn Văn P, bà Dương Thị Thu T mỗi người phải chịu số tiền 3.446.975 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm là không đúng. Bởi lẽ, tại phiên tòa sơ thẩm ông P thừa nhận có nợ tiền vật liệu xây dựng bà T và đồng ý trả cho bà T 137.879.000 đồng nên căn cứ quy định tại khoản 8 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/02006 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án thì ông P phải chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm là 6.893.950 đồng, do đó Hội đồng xét xử sửa án sơ thẩm về phần án phí.

Ti phần Quyết định của bản án sơ thẩm, cấp sơ thẩm không xử lý tiền tạm ứng án phí của nguyên đơn bà Dương Thị Thu T theo biên lai thu số 0018644 ngày 04/01/2019 là thiếu sót và cấp phúc thẩm đã khắc phục được, cấp sơ thẩm cần rút kinh nghiệm.

Từ những phân tích trên xét thấy yêu cầu kháng cáo của bị đơn là không có cơ sở nên Hội đồng xét xử không chấp nhận. Chấp nhận một phần đề nghị của đại diện Viện kiểm sát.

[7] Về án phí dân sự phúc thẩm: Do yêu cầu kháng cáo của bị đơn ông Nguyễn Văn P không được chấp nhận nên ông P phải chịu 300.000 đồng tiền án phí dân sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 147, Điều 148, Điều 228 và khoản 2 Điều 308 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 430; Điều 440 của Bộ luật dân sự năm 2015; Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2006 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Kng chấp nhận kháng cáo của bị đơn ông Nguyễn Văn P.

Sửa bản án dân sự sơ thẩm số 02/2019/DS-ST ngày 17 tháng 4 năm 2019 của Toà án nhân dân huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang về phần án phí.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Dương Thị Thu T.

2. Buộc ông Nguyễn Văn P có trách nhiệm trả cho bà Dương Thị Thu T số tiền là 137.879.000đ (Một trăm ba mươi bảy triệu tám trăm bảy mươi chín nghìn đồng).

Kể từ ngày nguyên đơn có đơn yêu cầu thi hành án nếu bị đơn chậm trả số tiền thì hàng tháng còn phải trả cho nguyên đơn số tiền lãi chậm trả tương ứng với số tiền và thời gian chậm trả tại thời điểm thanh toán, lãi suất được áp dụng theo quy định tại Điều 357 Bộ luật dân sự 2015.

3. Về án phí dân sự sơ thẩm: Ông Nguyễn Văn P phải chịu 6.893.950 đồng (Sáu triệu tám trăm chín mươi ba nghìn chín trăm năm mươi đồng).

Bà Dương Thị Thu T được nhận lại số tiền 3.500.000 đồng (Ba triệu năm trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số 0018644 ngày 04/01/2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang.

4. Về án phí dân sự phúc thẩm: Ông Nguyễn Văn P phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng), khấu trừ 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí kháng cáo đã nộp theo biên lai thu số 0018847 ngày 24/4/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang thành tiền án phí.

Trường hợp bản án được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự; người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án ngày 15/10/2019.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

231
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 142/2019/DS-PT ngày 15/10/2019 về tranh chấp hợp đồng mua bán

Số hiệu:142/2019/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hậu Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 15/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về