Bản án 142/2017/HSST ngày 18/12/2017 về tội cố ý gây thương tích

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LONG THÀNH, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 142/2017/HSST NGÀY 18/12/2017 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 18 tháng 12 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Long Thành mở phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 142/2017/HSST ngày 14 tháng 11 năm 2017 đối với:

Bị  cáo: Trần Thái Kh, sinh ngày 25/8/1996 tại Đồng Nai. Hộ khẩu thường trú: Tổ 11, ấp L, xã Ph, huyện L, tỉnh Đ.

Nghề nghiệp: Lơ xe; Trình độ văn hóa: 06/12; Con ông Trần Nhựt M, sinh năm 1968  và bà Trần Thị Liên Th (Trần Thị Liêu T), sinh năm 1974; Bị cáo chưa có vợ con.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt truy nã ngày 30/9/2017 và chuyển sang tạm giam đến nay tại Nhà tạm giữ Công an huyện Long Thành (có mặt).

-  Người bị hại: Anh Phạm Hoàng Trung K, sinh năm 1987 (chết).

-  Người đại diện hợp pháp của người bị hại:

1. Ông Phạm Thế H, sinh năm 1958 (có mặt).

Hộ khẩu thường trú: Khu phố Th, thị xã D, tỉnh B.

Địa chỉ: Tổ 7, ấp L, xã Ph, huyện L, tỉnh Đ.

2. Bà Hoàng Thị Đ, sinh năm 1960 (có mặt).

Địa chỉ: Tổ 7, ấp L, xã Ph, huyện L, tỉnh Đ.

NHẬN THẤY

Bị cáo Trần Thái Kh bị Viện Kiểm sát nhân dân huyện Long Thành truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Phạm Hoàng Trung K và Trần Thái Kh không quen biết nhau và không có mâu thuẫn gì. Lúc 19 giờ ngày 30/7/2014, Phạm Hoàng Trung K tự ý đến nhà của anh Trần Thượng Ch tại ấp L, xã Ph để đòi giúp số tiền anh Ch còn nợ của anh Võ Tấn L, khi đến thì K và anh Ch xảy ra cự cãi. Sau đó, anh Ch bỏ đi vào nhà, K tiếp tục đuổi theo dùng tay đánh anh Ch, thấy vậy Trần Thái Kh là cháu ruột của anh Ch đang ở trong nhà đến đẩy K ra ngoài sân, lúc này K rút con dao Thái Lan, mũi sắc nhọn giấu trong người ra thì Kh ôm vật K xuống đất làm con dao rớt ra ngoài, Kh liền nhặt con dao đâm một nhát trúng vùng thắt lưng làm K ngã xuống đất. Sau khi sự việc xảy ra, K được người dân đưa đi cấp cứu, còn Kh bỏ trốn khỏi địa phương đến ngày 30/9/2017 bị bắt truy nã.

Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 0957/GĐPY/2014 ngày 08/12/2014 của Trung tâm pháp y thuộc sở y tế Đồng Nai kết luận thương tích của anh Phạm Hoàng Trung K như sau:

1. Dấu hiệu chính qua giám định:

- Vết thương lưng khoảng D6, D7 làm tổn thương tủy ngực gây mất hoàn toàn cảm giác ½ người dưới (Áp dụng Chương 2, mục VI, Điều 3.4). Tỷ lệ: 45%.

2. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên tại thời điểm giám định là 45% (bốn mươi lăm phần trăm).

Vật chứng vụ án: 01 con dao Thái Lan cán màu vàng, mũi sắc nhọn, sau khi phạm tội Kh đã vứt bỏ, Cơ quan điều tra không thu hồi được.

Tại bản cáo trạng số 135/VKS-HS ngày 09 tháng 12 năm 2017 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Long Thành đã truy tố bị cáo Trần Thái Kh về tội “Cố ý gây thương tích” theo khoản 3 Điều 104 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Thành giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Trần Thái Kh về tội “Cố ý gây thương tích” theo khoản 3 Điều 104 Bộ luật hình sự. Đề nghị áp dụng khoản 3 Điều 104; Điểm b, p khoản 1 Điều 46, Điều 60, Điều 69, Điều 74 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Trần Thái Kh mức án từ 32 (ba mươi hai) tháng đến 36 (ba mươi sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 5 (năm) năm.

Về trách nhiệm dân sự: Ghi nhận sự tự nguyện của bị cáo bồi thường tiếp cho gia đình bị hại 200.000.000 đồng (hai trăm triệu đồng).

Căn cứ vào các chứng cứ tài liệu có tại hồ sơ; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

XÉT THẤY

Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội phù hợp với các lời khai tại Cơ quan điều tra, lời khai người bị hại, người đại diện hợp pháp của người bị hại, các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án và cáo trạng mô tả.

Lúc 20 giờ ngày 30/7/2014, tại ấp L, xã Ph, huyện L, bị cáo Trần Thái Kh có hành vi dùng dao Thái Lan đâm 01 nhát trúng vào vùng thắt lưng của anh Phạm Hoàng Trung K gây thương tích. Tuy thương tích của bị hại K là 45% nhưng bị cáo đã dùng hung khí nguy hiểm gây thương tích cho người bị hại K. Từ đó có đủ cơ sở kết luận bị cáo Trần Thái Kh phạm tội “Cố ý gây thương tích” theo khoản 3 Điều 104 Bộ luật hình sự như Viện Kiểm sát nhân dân huyện Long Thành đã truy tố là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

Hành vi của bị cáo Kh là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến sức khỏe của người khác được pháp luật bảo vệ, làm mất trật tự trị an tại địa phương. Vì vậy, phải tuyên xử bị cáo một mức án tương xứng mức độ phạm tội của bị cáo nhằm răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

Tuy nhiên, cũng cần xem xét đến các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo Kh như: Bị cáo có nhân thân tốt, thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải; Gia đình bị cáo đã khắc phục một phần hậu quả cho người bị hại; Tại phiên tòa, bị cáo tự nguyện bồi thường gia đình bị hại tiếp số tiền 200.000.000 đồng (hai trăm triệu đồng). Ngoài ra, khi bị cáo phạm tội chưa đủ 18 tuổi. Vì vậy, cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Về trách nhiệm dân sự: Trước đó gia đình bị cáo đã bồi thường cho bị hại số tiền 2.000.000 đồng (hai triệu đồng). Tại phiên tòa, người đại diện hợp pháp cho người  bị hại bà Hoàng Thị Đ và ông Phạm Thế H yêu cầu bị cáo bồi thường tiếp số tiền 200.000.000 đồng (hai trăm triệu đồng), bị cáo đồng ý bồi thường tiếp số tiền 200.000.000 đồng theo như yêu cầu của người đại diện hợp pháp của người bị hại; Do đó, Hội đồng xét xử, ghi nhận sự tự nguyện của bị cáo tiếp tục bồi thường tiếp cho người bị hại số tiền là 200.000.000 đồng (hai trăm triệu đồng).

Về vật chứng vụ án: 01 con dao Thái Lan đã thất lạc nên Cơ quan điều tra Công an huyện Long Thành không thu hồi được để xử lý.

Về án phí: Bị cáo Kh phải chịu án phí hình sự và dân sư sơ thẩm theo quy định của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Trần Thái Kh phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

- Áp dụng khoản 3 Điều 104, điểm b, p khoản 1 Điều 46, Điều 69, khoản 1 Điều 74 của Bộ luật hình sự. Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử phạt bị cáo Trần Thái Kh 03 (ba) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giam 30/9/2017.

Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng khoản 2 Điều 468, Điều 590 Bộ luật dân sự.

Ghi nhận sự tự nguyện của bị cáo tiếp tục bồi thường cho người bị hại số tiền là 200.000.000 đồng (hai trăm triệu đồng) do ông Phạm Thế H và bà Hoàng Thị Đ là người đại diện hợp pháp của người bị hại là người đại diện.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng ên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.

Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000đ (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 10.000.000 đồng (mười triệu đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

Bị cáo và người đại diện hợp pháp của người bị hại được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

284
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 142/2017/HSST ngày 18/12/2017 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:142/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Long Thành - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/12/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về