TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VÂN ĐỒN, TỈNH QUẢNG NINH
BẢN ÁN 14/2021/HS-ST NGÀY 20/05/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 20 tháng 5 năm 2021, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân Huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 10/2021/HSST ngày 13 tháng 4 năm 2021 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 13/2021/QĐXXST - HS ngày 05/5/2021 đối với các bị cáo:
1. Họ và tên: Phạm V H - Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam; Sinh ngày: 20/11/1992, tại Huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh;
Nơi cư trú: Thôn ĐH, xã ĐX, Huyện Vân Đồn, Quảng Ninh;
Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: Lớp 12/12;
Họ tên cha: Phạm H - Sinh năm 1965;
Họ tên mẹ: Nguyễn TD - Sinh năm 1968; Vợ, con: Chưa có;
Tiền án, tiền sự: Chưa Nhân thân: Năm 2011, bị Tòa án nhân dân Huyện Vân Đồn xử phạt 08 năm tù về tội “ Mua bán trái phép chất ma túy”. Chấp hành xong bản án ngày 14/3/2017.
Bị cáo bị bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp ngày 23/01/2021, tạm giữ đến ngày 01/02/2021 được thay thế bằng biện pháp “Cấm đi khỏi nơi cư trú” – Có mặt tại phiên tòa.
2. Họ và tên: Từ T H - Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam; Sinh ngày 04/7/1990, tại Huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh; Nơi cư trú: Thôn ĐH, xã ĐX, Huyện Vân Đồn, Quảng Ninh;
Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Sán Dìu; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: Lớp 5/12;
Họ tên cha: Từ KD - Sinh năm 1943; Họ tên mẹ: Châu TP - Sinh năm 1956;
Từ năm 2016, chung sống như vợ chồng với chị: Nguyễn Thị Q, sinh năm 1997; Có hai con, lớn sinh năm 2017, nhỏ sinh năm 2019;
Tiền án, tiền sự: Chưa Bị cáo bị bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp ngày 23/01/2021, tạm giữ đến ngày 01/02/2021 được thay thế bằng biện pháp “Cấm đi khỏi nơi cư trú” – Có mặt tại phiên tòa.
* Nguyên đơn dân sự: UBND Huyện Vân Đồn; Địa chỉ: Khu 5, thị trấn cái Rồng, Huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh; Người đại diện theo pháp luật: Ông Trương Mạnh Hùng; Chức vụ: Chủ tịch UBND Huyện.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn XH; Chức vụ: Phó trưởng phòng Phòng X - UBND Huyện Vân Đồn – Có mặt
* Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
- Công ty cổ phần môi trường Tuấn Đt; Địa chỉ: Tổ X, khu X, phường X, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh; Người đại diện theo pháp luật: Ông Đỗ Thanh S; Chức vụ: Giám đốc Công ty – Vắng mặt - Anh Phạm Quang Q, sinh năm 1992; Nơi cư trú: KhuX, thị trấn Cái Rồng, Huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh – Vắng mặt - Bà Đặng Thị X sinh năm 1964; Nơi cư trú: Khu X, thị trấn Cái Rồng, Huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh – Vắng mặt - Chị Nguyễn Thị Q, sinh năm 1997; Nơi ĐKHKTT: Thôn Voòng Tre, xã Đài Xuyên, Huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh; Chỗ ở: Thôn ĐH, xã ĐX, Huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh – Có mặt * Người làm chứng:
- Anh Lương Tự D, chị Nguyễn Thị Thu T - Vắng mặt
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Phạm V H, Từ T H, Phạm Quang Q (Sinh năm 1992, trú tại: Khu 4, thị trấn Cái Rồng, Huyện Vân Đồn) là bạn quen biết nhau. Trong quá trình sinh hoạt tại Huyện Vân Đồn, thấy sơ hở trong việc quản lý hệ thống dây cáp điện ngầm hệ thống điện chiếu sáng tại khu vực thôn 1, xã Hạ Long, Huyện Vân Đồn của Ủy ban nhân dân Huyện Vân Đồn. Nên trong các ngày 19 và ngày 21/01/2021, H1, H, Q đã có hành vi trộm cắp dây cáp điện ngầm hệ thống đèn chiếu sáng của Ủy ban nhân dân Huyện Vân Đồn tại thôn 1, xã Hạ Long, Huyện Vân Đồn, cụ thể như sau:
Vụ thứ nhất: Khoảng 16 giờ ngày 19/01/2021, H điều khiển xe mô tô biển kiểm soát (BKS) 14K3-2275 cùng với H1 trên đường đi chơi về, đến khu vực thôn 1, xã Hạ Long, Huyện Vân Đồn. H1 nhìn thấy bên phải đường có đoạn dây cáp điện, một đầu lộ trên mặt đất và hở lõi đồng nên H1 nảy sinh ý định trộm cắp dây cáp để bán lấy tiền ăn tiêu. H1 bảo H lấy con dao trong túi xách màu xanh H1 mang đi để ở trên xe đưa cho H1. H1 dùng dao chặt đứt đầu dây cáp điện được 32,5m, còn H kéo đoạn dây cáp điện cuộn lại cho vào túi màu đen. Sau đó H1, H mang đoạn dây cáp điện trên về phòng kho nhà H1 cùng nhau bóc vỏ lấy phần lõi đồng rồi mang đến nhà chị Nguyễn Thị T T (tại thôn ĐH, xã ĐX, Huyện Vân Đồn) để bán. Tại đây, H1, H gặp anh Lương Tự D đang thu mua phế liệu của chị T nên bán số lõi đồng cho bà T, anh D được 1.100.000 đồng. H1 dùng tiền chuộc lại điện thoại cho H hết 800.000 đồng, còn lại H1, H chi tiêu cá nhân hết.
Vụ thứ hai: Khoảng 23 giờ ngày 19/01/2021, H1 gọi điện thoại rủ H đi xuống thôn 1, xã Hạ Long, để trộm cắp dây điện. H đi xe mô tô BKS 14K3- 2275 đến đón H1. H1 cầm theo túi xách màu xanh đựng 01 kìm cộng lực, 01 con dao. Khi đến nơi H1 và H cắt trộm được 8,2m dây điện rồi mang về kho nhà H1 để. Sáng ngày 20/01/2021, H1 dùng dao bóc phần vỏ bên ngoài lấy lõi đồng, mang đến bán cho chị T được 560.000đồng. Số tiền trên H1 chi tiêu cá nhân hết.
Vụ thứ ba: Khoảng 14 giờ ngày 21/01/2021, Phạm Quang Q điều khiển xe mô tô BKS 14S1-089.48 của bà Đặng Thị Xuyến (mẹ Q) đến nhà H1 chơi thì H1 rủ Q đi trộm cắp dây điện, Q đồng ý. H1 cầm túi xách màu xanh bên trong có 01 con dao, 01 kìm cộng lực, và được Q chở đến thôn 1, xã Hạ Long. Tại đây, H1 bảo Q đứng cảnh giới còn H1 trực tiếp vào cắt trộm được 13,1m dây cáp điện cho vào túi xách. Sau đó, Q chở H1 và dây điện lấy được đem về kho nhà H1 giấu. Sau đó, H1 bóc vỏ nhựa lấy lõi đồng mang bán cho chị T được 550.000 đồng, số tiền trên H1 đã chi tiêu cá nhân hết.
Vụ thứ tư: Khoảng 16 giờ ngày 21/01/2021, H một mình đi xe mô tô BKS 14K3-2275 và cầm theo túi xách màu đen bên trong có 01 con dao, 01 kìm cộng lực đến thôn 1, xã Hạ Long. H dùng kìm cắt 03 đoạn dây điện dài khoảng 5,3m rồi mang về nhà bóc vỏ nhựa lấy lõi đồng rồi mang bán cho chị T được 320.000đồng, số tiền trên H ăn tiêu cá nhân hết.
Đến khoảng 17 giờ ngày 22/01/2021, H1 rủ H, Q đi cắt trộm dây điện, tất cả đồng ý. H điều khiển xe mô tô BKS 14K3-2275, cầm theo túi màu đen bên trong có 01 con dao, 01 kìm cộng lực, 01 búa đinh, 01 đôi găng tay; 01 bao dứa màu trắng. Q điều khiển xe mô tô BKS 14S1-089.48 chở H1 và mang theo túi xách màu xanh bên trong có 01 con dao; 01 đèn pin, 01 kìm cộng lực, 01 xà beng. Khi đến thôn 1, xã Hạ Long, cả ba người đang dùng xà beng đào đất thì có người đi bộ qua nên Q một mình đi xe bỏ về trước. Còn H và H1 về sau thì bị tuần tra Công an Huyện Vân Đồn phát hiện, đưa về Công an Huyện Vân Đồn làm việc.
Tại Kết luận định giá tài sản số 02 ngày 23/01/2021, của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự Huyện Vân Đồn kết luận:
+ 32,5m dây cáp điện ngầm chiếu sáng Cu/PLPE/PVC/DSTA/PVC- 0,6/1KV 3 X16+1 X10MM2, trị giá 2.951.926 đồng.
+ 8,2m dây cáp điện ngầm chiếu sáng Cu/PLPE/PVC/DSTA/PVC- 0,6/1KV 3 X16+1 X10MM2, trị giá 744.793 đồng.
+ 13,1m dây cáp điện ngầm chiếu sáng Cu/PLPE/PVC/DSTA/PVC- 0,6/1KV 3 X16+1 X10MM2, trị giá 1.189.853 đồng.
+ 5,3m dây cáp điện ngầm chiếu sáng Cu/PLPE/PVC/DSTA/PVC- 0,6/1KV 3 X16+1 X10MM2, trị giá 481.391 đồng.
Tổng giá trị tài sản bị thiệt hại là 5.367.963 đồng.
Quá trình điều tra, và tại phiên tòa, bị cáo Phạm V H, bị cáo Từ T H khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, như nội dung bản cáo trạng đã quy kết.
Bị cáo H1 thừa nhận, do không có tiền chi tiêu cá nhân, bản thân bị cáo đã cùng với bị cáo H thực hiện hai vụ trộm cắp dây dẫn điện tại khu vực thôn 1, xã Hạ Long, Huyện Vân Đồn, vụ thứ nhất vào khoảng 16 giờ ngày 19/01/2021, vụ thứ hai vào khoảng 23 giờ ngày 19/01/2021, trong đó vụ thứ nhất bán số lõi đồng cho chị T, anh D được 1.100.000 đồng, cả hai cùng chi tiêu số tiền trên. Vụ thứ hai bán số lõi đồng cho chị T được 560.000đồng, số tiền trên bị cáo chi tiêu cá nhân hết. Thừa nhận bản thân bị cáo đã cùng với Phạm Quang Q thực hiện một vụ trộm cắp dây dẫn điện cũng tại khu vực thôn 1, xã Hạ Long vào khoảng 14 giờ ngày 21/01/2021, lấy lõi đồng mang bán cho chị T được 550.000đồng, số tiền này bị cáo đã chi tiêu cá nhân và mua một số đồ cho Q hết 200.000 đồng. Thừa nhận khoảng 17 giờ ngày 22/01/2021, bị cáo rủ H, Q đi cắt trộm dây điện, cũng tại vị trí thôn 1, xã Hạ Long, khi đang đào đất để cắt dây điện thì có người đi qua, các bị cáo bỏ về thì bị Công an phát hiện.
Bị cáo còn khai nhận, tất cả các vụ trộm cắp trên đều do bị cáo rủ H và Q tham gia, khi đi trộm cắp bị cáo chuẩn bị dao, túi xách màu xanh, kìm cộng lực, đèn pin, 01 xà beng để trộm cắp tài sản. Chiếc áo màu cam có lo go ngành điện lực là áo của bị cáo, bị cáo dùng để mặc chống nắng, áo đã cũ hỏng, nên bị cáo từ chối nhận lại. Khi trộm cắp được dây điện, bị cáo đều đem về kho tại nhà bị cáo cất giấu và bóc lấy lõi đồng đem bán. Thừa nhận 01 bao tải màu đỏ trắng bên trong đựng vỏ nhựa màu đen, dây kim loại và dây màu trắng, bị thu giữ, là vỏ bọc các đoạn dây điện bị cáo đã cắt trộm, sau khi lấy lõi đồng đem bán, bị cáo cất giấu tại nhà kho nhà bị cáo. Việc các bị cáo thực hiện hành vi trộm cắp là do bột phát, do phát hiện thấy sơ hở nên cùng nhau cắt dây điện lấy lõi đồng đem bán, khi đi trộm cắp các bị cáo không bàn bạc, trao đổi hay phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng người. Sau khi bị phát hiện, bị cáo đã cùng với bị cáo H, anh Phạm Quang Q đã bồi thường thiệt hại cho UBND Huyện Vân Đồn số tiền là 7.415.000 đồng, trong đó bị cáo đã bồi thường 2.500.000 đồng, thừa nhận bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ninh truy tố đối với bị cáo, đúng với hành vi bị cáo đã thực hiện và đúng người, đúng tội, không oan.
Bị cáo Từ T H thừa nhận lời khai của bị cáo H1 là đúng, bị cáo thừa nhận ngoài hai lần cùng bị cáo H1 trộm cắp tài sản, bản thân bị cáo còn thực hiện một vụ vào khoảng 16 giờ ngày 21/01/2021, bị cáo một mình đi xe mô tô BKS 14K3-2275 và cầm theo túi xách màu đen bên trong có 01 con dao, 01 kìm cộng lực đến thôn 1, xã Hạ Long. Bị cáo dùng kìm cắt 03 đoạn dây điện dài khoảng 5,3m rồi mang về nhà bóc vỏ nhựa lấy lõi đồng rồi mang bán cho chị T được 320.000đồng, số tiền này bị cáo chi tiêu cá nhân hết. Thừa nhận khoảng 17 giờ ngày 22/01/2021 cũng tại vị trí thôn 1, xã Hạ Long, bị cáo cùng bị cáo H1 và Q đi cắt trộm dây điện, khi đang đào đất để cắt dây điện thì có người đi qua, các bị cáo bỏ về thì bị Công an phát hiện. Thừa nhận khi đi trộm cắp tài sản, bị cáo chuẩn bị và cầm theo 01 túi màu đen, bên trong có 01 con dao, 01 kìm cộng lực, 01 búa đinh (loại đánh con Hà), 01 đôi găng tay; 01 bao dứa màu trắng. Chiếc xe mô tô BKS 14K3-2275, bị cáo dùng để đi trộm cắp tài sản là của chị Nguyễn Thị Q, là người chung sống như vợ chồng với bị cáo từ năm 2016, trong các ngày 19,21/01/2021, chị Q đi làm để xe và chìa khóa ở nhà, bị cáo đã tự ý lấy xe đi và thực hiện hành vi trộm cắp, khi lấy xe đi, bị cáo không hỏi ý kiến của chị Q và bị cáo cũng không nói cho chị Q biết việc bị cáo sử dụng xe vào việc trộm cắp tài sản. Khi thực hiện hành vi trộm cắp, bị cáo không bàn bạc, trao đổi hay phân công nhiệm vụ cụ thể với H1, Q. Sau khi bị phát hiện, bị cáo đã cùng với bị cáo H1, anh Phạm Quang Q đã bồi thường thiệt hại cho UBND Huyện Vân Đồn số tiền là 7.415.000 đồng, trong đó bị cáo đã bồi thường 2.500.000 đồng, thừa nhận bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ninh truy tố đối với bị cáo, đúng với hành vi bị cáo đã thực hiện và đúng người, đúng tội, không oan.
Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, đại diện cho nguyên đơn dân sự ông Nguyễn XH khai:
Đường điện chiếu sáng thôn 1, xã Hạ Long là tài sản của nhà nước, do UBND Huyện Vân Đồn là chủ đầu tư, có ký hợp đồng quản lý và vận hành đường điện này với Công ty cổ phần môi trường T, trong các ngày 19,21/01/2021, đường điện này bị kẻ gian cắt trộm, vụ việc đã được Cơ quan điều tra làm rõ. Những người liên quan đã bồi thường cho UBND Huyện Vân Đồn số tiền là 7.415.000 đồng, nguyên đơn dân sự không yêu cầu các bị cáo phải bồi thường thêm bất kỳ khoản tiền nào khác.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
Đại diện Công ty cổ phần môi trường T có lời khai: Công ty cổ phần môi trường T ký hợp đồng quản lý và vận hành đường điện chiếu sáng với UBND Huyện Vân Đồn trên đường 334, trong đó có đoạn đường điện chiếu sáng tại thôn 1, xã Hạ Long, trong các ngày 19,21/01/2021, sau khi phát hiện đường điện bị cắt trộm, Công ty đã báo cáo với UBND Huyện và Công an Huyện Vân Đồn. Do không phải là chủ sở hữu, đến nay các bị cáo đã bồi thường cho UBND Huyện Vân Đồn, Công ty cổ phần môi trường T không có ý kiến gì khác.
Anh Phạm Quang Q khai: Anh Q thừa nhận khoảng 14 giờ ngày 21/01/2021, anh điều khiển xe mô tô BKS 14S1- 089.48 của bà Đặng Thị Xuyến (mẹ Q) đến nhà H1 chơi thì H1 rủ Q đi trộm cắp dây điện, Q đồng ý và chở H1 đến thôn 1, xã Hạ Long. Tại đây, anh đứng cảnh giới còn H1 trực tiếp vào cắt trộm được 13,1m dây cáp điện cho vào túi xách, anh chở H1 và dây điện lấy được đem về kho nhà H1 giấu. Sau đó, H1 bóc vỏ nhựa lấy lõi đồng mang bán cho chị T được 550.000đồng, số tiền trên H1 không chia cho anh mà chi tiêu cá nhân hết. Anh cũng thừa nhận, khoảng 17 giờ ngày 22/01/2021 cũng tại vị trí thôn 1, xã Hạ Long, anh cùng bị cáo H1 và H đi cắt trộm dây điện, khi đang đào đất để cắt dây điện thì có người đi qua, thấy vậy anh đã bỏ về trước, H1 và H về sau. Sau khi sự việc xảy ra, anh đã nhận thức được hành vi của mình là sai, anh đã bị Công an Huyện Vân Đồn xử phạt vi phạm hành chính về hành vi trộm cắp tài sản của mình. Anh cũng đã tự nguyện bồi thường thiệt hại cho UBND Huyện Vân Đồn số tiền 2.415.000 đồng và không có ý kiến gì về việc này. Chiếc xe mô tô BKS 14S1- 089.48 là của bà Đặng Thị Xuyến, ngày 21/01/2021, khi bà Xuyến không ở nhà, anh đã tự ý lấy đi, anh không nói và bà Xuyến cũng không biết việc anh dùng xe và chở H1 đi trộm cắp dây điện.
Bà Đặng Thị Xuyến khai: Bà là mẹ đẻ của Phạm Quang Q, ngày 21/01/2021, bà đi vắng không có mặt ở nhà, Q tự ý lấy xe mô tô BKS 14S1- 089.48 của bà đi và thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, khi lấy xe Q không hỏi ý kiến bà và bà cũng không biết Q dùng xe vào việc gì. Đến nay, cơ quan Công an đã trả lại và bà đã nhận lại đầy đủ chiếc xe trên, bà không có ý kiến gì khác về việc này.
Chị Nguyễn Thị Q khai: Chị và bị cáo Từ T H chung sống với nhau như vợ chồng từ năm 2016 cho đến nay, năm 2016 chị được người chú tên là Vũ Văn Đạm, trú tại Khu 5, thị trấn Cái Rồng, Huyện Vân Đồn cho 01 xe mô tô BKS 14K3-2275 gồm cả giấy đăng ký xe, đến nay chị đã làm mất giấy đăng ký. Trong các ngày 19,21/01/2021, chị đi làm có để xe và chìa khóa ở nhà, bị cáo H không hỏi ý kiến của chị, đã tự ý lấy xe đi và thực hiện hành vi trộm cắp, khi lấy xe đi, bị cáo không nói cho chị biết và chị cũng không biết việc bị cáo sử dụng xe vào việc trộm cắp tài sản. Do đây là tài sản cá nhân của chị, chị có quan điểm được nhận lại chiếc xe mô tô BKS 14K3-2275, để phục vụ cho việc đi lại, làm ăn sinh sống của chị và gia đình.
Tại phiếu trả lời xác minh phương tiện giao thông đường bộ ngày 16/3/2021 của Công an Huyện Vân Đồn có nội dung: Biển số 14K3-2275, chủ xe: Vũ Văn Đạm; Địa chỉ: Khu 5, thị trấn Cái Rồng, Huyện Vân Đồn; Nhãn hiệu: YAMAHA; Màu sơn: Xanh; Ngày đăng ký lần đầu: 12/11/2003.
Tại biên bản lấy lời khai và bản tường trình ngày 16/3/2021, ông Vũ Văn Đạm khai: Chiếc xe mô tô BKS 14K3-2275 là tài sản của ông, năm 2016, ông đã cho cháu gái của ông là chị Nguyễn Thị Q, bao gồm cả đăng ký xe, khi cho không viết giấy tờ gì cả. Do ông đã cho chị Q, vì vậy chị Q có toàn quyền xử lý đối với chiếc xe trên, cá nhân ông không có ý kiến gì khác về việc này.
Người làm chứng là chị Nguyễn Thị T T và anh Lương Tự D là những người làm nghề thu mua phế liệu, có lời khai phù hợp với lời khai của các bị cáo về những lần bị cáo H1, bị cáo H bán dây đồng cho chị T, anh D, phù hợp với số tiền các bị cáo khai tại mỗi lần bán đồng, phù hợp với việc mỗi lần mang đồng đi bán, các bị cáo đều nói với anh, chị là khi đi làm nhặt được đồng nên mang bán và do các bị cáo nói nhặt được, nên các anh, chị tin tưởng mới mua cho các bị cáo.
Tại bản cáo trạng số 33/CT – VKSQN – P2 ngày 08/4/2021, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ninh truy tố bị cáo Phạm V H, Từ T H về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự;
Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Huyện Vân Đồn giữ nguyên quyết định truy tố Phạm V H, Từ T H theo nội dung bản Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:
Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Phạm V H từ 09 tháng tù đến 12 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt đi thi hành án, được trừ đi thời hạn tạm giữ từ ngày 23/01/2021 đến ngày 01/02/2021.
Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, i, s khoản 1 Điều 51; Khoản 1,2,5 Điều 65; Điều 17; Điều 58 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Từ T H từ 06 tháng tù đến 09 tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 12 tháng đến 18 tháng.
Giao bị cáo cho UBND xã ĐX, Huyện Vân Đồn giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.
Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.
Áp dụng: Điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; Điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.
- Tịch thu tiêu hủy 01 túi xách màu xanh đen KT 43 X 23cm; 01 dao kim loại dài 43cm cán bọc nhựa màu đen; 02 kìm bằng kim loại bọc nhựa màu xanh dài 45cm; 01 đèn pin màu đen; 01 thanh kim loại dài 73cm, 01 đầu nhọn, 01 đầu bẹt; 01 áo sơ mi màu da cam, có dòng chữ Tổng Công ty điện lực Miền Bắc; 01 bao dứa màu đỏ trắng, bên trong có các vỏ dây cáp điện bằng nhựa, kim loại và dây dứa màu trắng; 01 túi xách màu đen KT 45 x 32cm; 01 dao kim loại dài 43cm cán bằng gỗ; 01 búa đánh hà dài 26cm; 02 găng tay màu trắng; 01 bao tải dứa màu trắng - Trả lại cho chị Nguyễn Thị Q 01 xe mô tô BKS 14K3-2275
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Quảng Ninh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ninh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã được thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục được qui định trong Bộ luật Tố tụng hình sự ; Quá trình điều tra và tại phiên tòa, không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng; Do đó, các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về hành vi phạm tội của các bị cáo:
Tại phiên toà các bị cáo Phạm V H, Từ T H thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội, lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với chính lời khai của các bị cáo trong quá trình điều tra, phù hợp với nội dung bản cáo trạng, phù hợp với lời khai của nguyên đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng, cùng với các tài liệu điều tra khác có trong hồ sơ vụ án có đủ cơ sở kết luận:
Khoảng 16 giờ ngày 19/01/2021, tại thôn 1 xã Hạ Long, Huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh, Phạm V H, Từ T H có hành vi trộm cắp 32,5m dây cáp điện ngầm hệ thống đèn chiếu sáng, trị giá 2.951.926 đồng của Ủy ban nhân dân Huyện Vân Đồn.
Các bị cáo Phạm V H, Từ T H có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp; Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ. Các bị cáo đã lợi dụng sơ hở, lén lút thực hiện hành vi cắt đường dây dẫn điện hệ thống chiếu sáng công cộng, trị giá 2.951.926 đồng, sau đó bóc vỏ bọc lấy lõi đồng bán lấy tiền tiêu sài cá nhân. Hành vi phạm tội của các bị cáo Phạm V H, Từ T H đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” được qui định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.
Khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự quy định:
“Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nH thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”.
[3] Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ninh truy tố bị cáo Phạm V H, Từ T H tội “Trộm cắp tài sản” được qui định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự, là có căn cứ, đúng qui định của pháp luật.
[4] Các bị cáo là người trưởng thành, nhận thức được các quy định của pháp luật về quyền sở hữu về tài sản của người khác, nhận thức được hành vi trộm cắp tài sản là hành vi bị pháp luật ngăn cấm, nH do lười lao động, coi thường pháp luật, vì mục đích thỏa mãn nhu cầu cá nhân dẫn đến phạm tội, gây tâm lý hoang mang, lo lắng trong đời sống nhân dân, ảnh hưởng đến an ninh, trật tự xã hội trên địa bàn, vì vậy cần xử phạt các bị cáo nghiêm khắc, tương xứng với hành vi phạm tội của các bị cáo.
[5] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
- Về tình tiết tăng nặng: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; Bị cáo H1 có nhân thân xấu, đã từng bị xử phạt tù về hành vi “Mua bán trái phép chất ma túy”; Cả hai bị cáo trong một thời gian ngắn liên tiếp thực hiện nhiều vụ trộm cắp tài sản, do một số vụ không đủ yếu tố cấu thành tội phạm, nên cơ quan Công an đã ra quyết định xử lý hành chính - Về tình tiết giảm nhẹ: Tại phiên tòa và tại cơ quan điều tra, các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; Các bị cáo đã bồi thường toàn bộ thiệt hại là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo H phạm tội lần đầu, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, vì vậy được áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự;
[6] Xét về tính chất, vai trò của các bị cáo:
Đây là một vụ án có tính chất đồng phạm giản đơn, các bị cáo không trao đổi, bàn bạc, phân công cho nhau khi thực hiện hành vi phạm tội. Bị cáo H1 là người có nhân thân xấu, là người khởi xướng và rủ rê bị cáo H trộm cắp tài sản, vì vậy vai trò của bị cáo H1 cao hơn bị cáo H.
[7] Sau khi xem xét tính chất mức độ hành vi phạm tội, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo, xét thấy, cần cách ly bị cáo H1 ra khỏi xã hội một thời gian. Đối với bị cáo H, do bị cáo có nhân thân tốt, bản thân có nhiều tình tiết giảm nhẹ, vì vậy, xét thấy không cần thiết cách ly bị cáo khỏi xã hội, mà cho bị cáo được tự cải tạo, dưới sự giám sát, giáo dục của gia đình và chính quyền địa phương là phù hợp, cũng đảm bảo sự giáo dục cải tạo các bị cáo và phòng ngừa chung.
[8] Về trách nhiệm dân sự: Nguyên đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không yêu cầu các bị cáo phải tiếp tục phải bồi thường bất cứ khoản tiền nào khác, vì vậy Hội đồng xét xử không xét.
[9] Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án, các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.
[10] Về xử lý vật chứng:
- Chiếc xe mô tô tô BKS 14S1- 089.48 quá trình điều tra xác định thuộc sở hữu của bà Đặng Thị Xuyến, bà Xuyến không giao xe cho anh Phạm Quang Q và không biết Q sử dụng xe vào việc trộm cắp tài sản. Cơ quan điều tra đã trả lại cho bà xuyến chiếc xe trên, vì vậy không xét.
- 01 xe mô tô BKS 14K3-2275 bị thu giữ, quá trình xác minh là tài sản của ông Vũ Văn Đạm, ông Đạm đã cho cháu gái là chị Nguyễn Thị Q từ năm 2016, vì vậy thuộc quyền quản lý của chị Q, khi bị cáo H lấy xe đi thực hiện hành vi trộm cắp, bị cáo không hỏi ý kiến của chị Q, chị Q cũng không biết bị cáo lấy xe đi và sử dụng vào việc gì, do đó cần trả lại cho chị Q.
Đối với hành vi không thực hiện thủ tục thay đổi sở hữu chủ đối với xe mô tô BKS 14K3-2275 của chị Q, thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan quản lý hành chính nhà nước, vì vậy không xét.
- Các vật chứng khác theo biên bản giao nhận vật chứng của Chi cục Thi hành án dân sự Huyện Vân Đồn, xét thấy đây là công cụ phạm tội. Chiếc áo màu cam của bị cáo H1 đã cũ, bị cáo từ chối nhận lại và không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.
[11] Về hình phạt bổ sung: Do các bị cáo không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định, nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.
[12] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, nguyên đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
[13] Đối với các hành vi trộm cắp dây cáp điện của Phạm V H, Từ T H vào 23 giờ ngày 19/01/2021 và ngày 21/01/2021, do giá trị tài sản trộm cắp ở những lần này đều dưới 2.000.000 đồng, chưa đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”, Công an Huyện Vân Đồn đã xử phạt hành chính nên không đề cập xử lý.
Đối với Phạm Quang Q ngày 21/01/2021 cùng với Phạm V H trộm cắp 13,1m dây cáp điện (trị giá 1.189.853 đồng). Q chưa có tiền án, chưa bị xử phạt hành chính về hành vi này nên chưa đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”, Công an Huyện Vân Đồn đã xử phạt hành chính nên không đề cập xử lý.
Đối với chị Nguyễn Thị T T là người mua số lõi đồng do các bị cáo bán nH không biết là tài sản do phạm tội mà có nên không có căn cứ để xử lý, vì vậy không xét.
Vì các lẽ trên
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào:
- Khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Phạm V H.
- Khoản 1 Điều 173; điểm b, i, s khoản 1 Điều 51; Khoản 1,2,5 Điều 65; Điều 17; Điều 58 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Từ T H.
Tuyên bố: Bị cáo Phạm V H, Từ T H phạm tội “Trộm cắp tài sản” - Xử phạt bị cáo Phạm V H 12 (mười hai) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi thi hành án, được trừ đi thời hạn tạm giữ từ ngày 23/01/2021 đến ngày 01/02/2021.
Căn cứ: Điều 123 Bộ luật Tố tụng hình sự, tiếp tục áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” đối với bị cáo Phạm V H trong thời hạn 45 (bốn mươi lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm để đảm bảo thi hành án.
- Xử phạt bị cáo Từ T H 09 (chín) tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách 18 (mười tám) tháng, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Giao bị cáo Từ T H cho Uỷ ban nhân dân xã ĐX, Huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh và gia đình bị cáo để giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách, trong trường hợp Từ T H thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.
Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết hoặc buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới, thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật hình sự.
Căn cứ: Điểm d khoản 1 Điều 125 Bộ luật Tố tụng hình sự, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, biện pháp ngăn chặn tại lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú: Số 30 ngày 13/4/2021 áp dụng đối với bị cáo Từ T H bị hủy bỏ.
- Áp dụng: Điểm a khoản 1, khoản 2 Điều 47 Bộ luật hình sự; Điểm a, c khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.
+ Tịch thu tiêu hủy 01 túi xách màu xanh đen KT 43cm x 23cm; 01 dao kim loại dài 43cm cán bọc nhựa màu đen; 02 kìm bằng kim loại bọc nhựa màu xanh dài 45cm; 01 đèn pin màu đen dài 11cm; 01 thanh kim loại dài 73cm, 01 đầu nhọn, 01 đầu bẹt; 01 áo sơ mi màu da cam, có dòng chữ Tổng Công ty điện lực Miền Bắc; 01 bao dứa màu đỏ trắng, bên trong có các vỏ dây cáp điện bằng nhựa, kim loại và dây dứa màu trắng; 01 túi xách màu đen KT 45 x 32cm; 01 dao kim loại dài 43cm cán bằng gỗ; 01 búa đánh hà dài 26cm; 02 găng tay màu trắng; 01 bao tải dứa màu trắng + Trả lại cho chị Nguyễn Thị Q 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, Số loại JUPITER, sơn màu xanh, BKS 14K3-2275, số khung J5VT13YA012713, số máy 5VT1 – 12713.
Tình trạng vật chứng thể hiện tại biên bản giao nhận vật chứng số 19 ngày 12/5/2021 của Chi cục Thi hành án Dân sự Huyện Vân Đồn, Quảng Ninh.
- Căn cứ vào: Khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.
Buộc các bị cáo Phạm V H, Từ T H, mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm - Căn cứ vào: Khoản 1, 3, 4 Điều 331 Bộ luật tố tụng hình sự Bị cáo Phạm V H, Từ T H; Nguyên đơn dân sự; Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt, có quyền kháng cáo trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Bản án 14/2021/HS-ST ngày 20/05/2021 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 14/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Vân Đồn - Quảng Ninh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 20/05/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về