Bản án 14/2021/HSST ngày 17/03/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 5 - THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 14/2021/HSST NGÀY 17/03/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Hôm nay, ngày 17 tháng 3 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 06/2021/HSST ngày 14/01/2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 37/2021/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 3 năm 2021 đối với bị cáo:

Phạm Văn A, sinh năm 2000, tại Đồng Tháp; Giới tính: Nam; Nơi đăng ký thường trú: Ấp B, xã C, huyện D, tỉnh Đồng Tháp; Nghề nghiệp: Không; Học vấn:

03/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Phạm Văn N (sinh năm 1971); Con bà: Nguyễn Thị M (sinh năm 1973); Anh, chị, em: Có 03 người, trong đó có 01 anh trai sinh năm 1992 và 01 chị gái sinh năm 1994; Vợ, con: Chưa có.

-Tiền án: Không.

-Tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 30/9/2020 (có mặt tại phiên tòa).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Bà Bùi Thị Hoài T, sinh năm 1993 (Vắng mặt).

Thường trú: Đường H, xã I, huyện K, tỉnh Tây Ninh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 17 giờ ngày 29 tháng 9 năm 2020, Phạm Văn A đi bộ qua nhà Trần Văn P tại huyện Bình Chánh chơi. Sau đó, A mượn xe máy nhãn hiệu Yamaha Mio biển số 61V2 – 3028 của Hòa đi đến khu vực Khu công nghiệp Lê Minh Xuân, huyện Bình Chánh gặp một thanh niên tên Phúc (không rõ lai lịch) mua 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) ma túy đá để sử dụng, A bỏ số ma túy trên vào trong túi quần phía trước bên phải rồi điều khiển xe máy trở lại nhà P. Sau đó cả hai cùng nhau đi qua nhà chú của P tại Quận 4 để nhậu. Sau khi nhậu xong, P điều khiển xe máy biển số 61V2 – 3028 chở A ngồi phía sau để về nhà. Khoảng 04 giờ 35 phút, ngày 30/9/2020, khi cả hai đến trước số 200 Huỳnh Mẫn Đạt, Phường 4, Quận 5 thì bị Tổ tuần tra 363 - Công an Quận 5 tiến hành kiểm tra phát hiện trong túi quần phía trước bên phải của A có 01 (một) bịch nylon bên trong có chứa tinh thể không màu, A khai là ma túy đá mua về để sử dụng nên Tổ tuần tra đã bàn giao A cùng vật chứng để Công an Phường 4, Quận 5 tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an Quận 5, Phạm Văn A khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu trên. A không nói cho P biết và P cũng không biết việc A cất giữ trái phép ma túy trong túi quần.

Trần Văn P khai nhận khoảng 17 giờ, ngày 29/9/2020, Phạm Văn A đi bộ lại nhà P ngồi chơi, được một lúc thì A hỏi mượn xe P nói là đi công việc, P đồng ý và đưa xe cho A đi, được một lát A quay về, sau đó do có bạn rủ xuống Quận 4 nhậu, nên P rủ A đi theo, sau khi nhậu xong P chở A về thì bị kiểm tra tại trước số 200 Huỳnh Mẫn Đạt, Phường 4, Quận 5 phát hiện trong túi quần bên phải của A có 01 (một) bịch nylong chứa tinh thể không màu (P nghe khai với công an là ma túy đá). Việc A mua ma túy và cất giấu trong người thì P không biết cũng như không liên quan. Qua test nhanh, Trần Văn P cho kết quả dương tính với chất ma túy loại MA, đồng thời qua xác minh không có nơi cư trú nhất định nên Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an Quận 5 bàn giao cho Công an Phường 4, Quận 5 lập hồ sơ đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

Đối với đối tượng tên Phúc (không rõ lai lịch) là người bán ma túy cho Phạm Văn A, Công an Quận 5 tiếp tục truy xét, khi nào bắt được sẽ xử lý sau.

- Vật chứng của vụ án:

+ 01 (một) bịch nylon bên trong chứa tinh thể không màu. Qua giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,2980g, loại Methamphetamine.

+ 01 xe máy nhãn hiệu Yamaha Ultimo (MIO) biển số 61V2 – 3028. Qua xác minh được biết do chị Bùi Thị Hoài T, hộ khẩu thường trú: Đường Lò Gạch, xã Minh Thạnh, huyện Dầu Tiếng, tỉnh Tây Ninh đứng tên sở hữu. Chị T cho biết mua chiếc xe trên vào năm 2010, vào khoảng đầu tháng 9/2020 chị bị mất chiếc xe trên cùng giấy tờ xe tại Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh. Tuy nhiên thời điểm mất xe không trình báo Công an địa phương. Trần Văn P khai nhận mua chiếc xe trên mạng (không có giấy tờ) vào khoảng giữa năm 2020 từ một thanh niên (không rõ lai lịch) với giá 3.200.000 đồng.

Tại bản Kết luận giám định số 1676/KLGĐ-H ngày 08 tháng 10 năm 2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận:

Tinh thể không màu trong 01 gói nylong được niêm phong bên ngoài có dấu vân tay, chữ ký ghi tên Phạm Văn A và hình dấu Công an Phường 4, Quận 5 (ký hiệu mẫu m) là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,2980 (không phẩy hai chín tám không gam), loại Methamphetamine.

Bản Cáo trạng số: 13/CT-VKSQ5 ngày 11/01/2021 của Viện kiểm sát nhân dân Quận 5 đã truy tố bị cáo Phạm Văn A về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Về trách nhiệm dân sự: Bà Bùi Thị Hoài T có yêu cầu được nhận lại xe máy hiệu Yamaha Ultimo biển số 61V2 - 3028.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 5 giữ quyền công tố luận tội và tranh luận:

Bị cáo Phạm Văn A có hành vi cất giữ 01 gói nylon chứa tinh thể không màu là ma túy, có khối lượng 0,2980g, loại Methamphetamine trong túi quần phía trước bên phải với mục đích sử dụng và bị bắt quả tang. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Phạm Văn A đã phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo Phạm Văn A từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Đề nghị xử lý vật chứng của vụ án theo quy định pháp luật.

Bị cáo Phạm Văn A không có ý kiến tranh luận và nói lời nói sau cùng là tỏ ra ăn năng, hối cải, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Quận 5, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 5, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

[2] Tại phiên tòa công khai, bị cáo Phạm Văn A đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, lời khai của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận, bị cáo Phạm Văn A đã có hành vi cất giữ trái phép chất ma túy với khối lượng 0,2980 (không phẩy hai chín tám không gam) nhằm mục đích sử dụng là đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xét bị cáo là người có năng lực hành vi, đủ khả năng nhận thức được việc làm của mình, biết việc tàng trữ trái phép các chất ma túy là hành vi vi phạm pháp luật mà Nhà nước nghiêm cấm, nhưng bị cáo bất chấp pháp luật tàng trữ chất ma túy nhằm mục đích sử dụng để thỏa mãn cơn nghiện.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến những quy định của Nhà nước về quản lý các chất ma túy, gây nghiện và độc hại; gây mất trật tự xã hội ở địa phương, còn là nguyên nhân phát sinh các tệ nạn xã hội và các loại tội phạm khác. Do đó, cần phải có một mức án nghiêm khắc, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo, nhằm mục đích giáo dục bị cáo, đồng thời có tác dụng răn đe và phòng ngừa chung.

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Do đó, cần xem xét cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[5] Về hình phạt áp dụng đối với bị cáo: Căn cứ Điều 50 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017), Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết bắt bị cáo chấp hành hình phạt tù với một thời gian nhất định để có thể cải tạo bị cáo thành người có ích cho xã hội.

[6] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” không hưởng lợi nên không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Viện kiểm sát nhân dân Quận 5 truy tố để xét xử và đề nghị mức hình phạt đối với bị cáo Phạm Văn A là có cơ sở pháp luật, đúng người, đúng tội, không oan sai.

[8] Đối với Trần Văn P, do Trần Văn P khai nhận việc Phạm Văn A mua ma túy và cất giấu trong người thì P không biết cũng như không liên quan. Qua test nhanh, Trần Văn P cho kết quả dương tính với chất ma túy loại MA, đồng thời qua xác minh, P cũng không có nơi cư trú nhất định nên Cơ quan cảnh sát điều tra, Công an Quận 5 bàn giao cho Công an Phường 4, Quận 5 lập hồ sơ đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

Đối với tên Phúc là người bán ma túy cho Phạm Văn A hiện chưa rõ lai lịch, Cơ quan điều tra tiếp tục truy xét, khi nào bắt được sẽ xử lý sau.

[9] Về xử lý vật chứng:

- 01 (một) gói nylon bên trong chứa tinh thể không màu. Qua giám định là ma túy, có khối lượng 0,2980g (không phẩy hai chín tám không gam), loại Methamphetamine. Đây là số ma túy còn lại sau giám định được gói niêm phong số 1676/2020/Q5 bên ngoài có dấu vân tay, chữ ký ghi tên Phạm Văn A và chữ ký của Giám định viên. Xét đây là vật phạm pháp, Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành nên tịch thu tiêu hủy.

- 01 xe máy nhãn hiệu Yamaha Ultimo (MIO) biển số 61V2 – 3028; số máy: 23B3042967; số khung: 042966. Qua kết quả xác minh thì hiện chiếc xe này do bà Bùi Thị Hoài T đứng tên chủ xe. Bà T khai là bị mất chiếc xe trên cùng giấy tờ xe vào thời điểm tháng 9/2020 tại Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh mà không trình báo Công an địa phương. Tuy nhiên, Trần Văn P lại khai nhận mua chiếc xe này trên mạng vào khoảng giữa năm 2020 từ một thanh niên (không rõ lai lịch) với giá 3.200.000 đồng cũng không có giấy tờ mua bán. Xét đây là tài sản chưa thể xác định được chính xác ai là chủ sở hữu trong thời điểm này, có sự việc mất xe hay có giao dịch mua bán xe hay có tranh chấp liên quan đến sở hữu gì hay không, nên Hội đồng xét xử thống nhất giao cho Cơ quan Thi hành án dân sự Quận 5 tiến hành thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng trong thời hạn 03 tháng để xem ai có giao dịch mua bán xe hay có tranh chấp liên quan đến chiếc xe nêu trên hay không, nếu có thì Cơ quan Thi hành án dân sự Quận 5 hướng dẫn họ thực hiện việc bảo vệ quyền lợi của mình theo quy định pháp luật dân sự, còn nếu hết thời hạn nêu trên mà không có ai tranh chấp, thì trả chiếc xe nêu trên cho bà Bùi Thị Hoài T.

[10] Về trách nhiệm dân sự: Không có, không giải quyết.

[11] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; Luật phí và lệ phí.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 50; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt bị cáo Phạm Văn A 01 (một) năm tù về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 30/9/2020.

Căn cứ Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Tịch thu và tiêu hủy 01 (một) gói nylon bên trong chứa tinh thể không màu. Qua giám định là ma túy, có khối lượng 0,2980g (không phẩy hai chín tám không gam), loại Methamphetamine. Đây là số ma túy còn lại sau giám định được gói niêm phong số 1676/2020/Q5 bên ngoài có dấu vân tay, chữ ký ghi tên Phạm Văn A và chữ ký của Giám định viên.

- Giao cho Cơ quan Thi hành án dân sự Quận 5 tiến hành thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng trong thời hạn 03 tháng để xem ai có giao dịch mua bán xe hay có tranh chấp liên quan đến chiếc xe máy nhãn hiệu Yamaha Ultimo (MIO) biển số 61V2 – 3028; số máy: 23B3042967; số khung: 042966 hay không, nếu có thì Cơ quan Thi hành án dân sự Quận 5 hướng dẫn họ thực hiện việc bảo vệ quyền lợi của mình theo quy định pháp luật dân sự, còn nếu hết thời hạn nêu trên mà không có ai tranh chấp, thì giao trả chiếc xe nêu trên cho bà Bùi Thị Hoài T.

(Theo biên bản bàn giao vật chứng ngày 17/3/2021 giữa đại diện Cơ quan điều tra - Công an Quận 5 và Chi Cục Thi hành án dân sự Quận 5).

Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự 2015; Luật phí và lệ phí và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Phạm Văn A chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày tính từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

145
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 14/2021/HSST ngày 17/03/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:14/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 5 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về