Bản án 14/2021/HS-ST ngày 11/03/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN V, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 14/2021/HS-ST NGÀY 11/03/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 11 tháng 3 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện V, tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 11/2021/TLST - HS ngày 03 tháng 02 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 12/2021/QĐXXST - HS ngày 25 tháng 02 năm 2021 đối với bị cáo: Lương Hồng N, sinh năm 1992 tại Nam Định.

Nơi ĐKHKTT: Đội 7, xã M, huyện M, tỉnh Nam Định; chỗ ở: Thôn D, xã T, huyện V, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: Tự do; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lương Văn H và con bà Trần Thị O; có chồng là Trần Xuân M (Đã ly hôn) và 02 con; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 02-12-2020 cho đến nay. “Có mặt”.

- Người tham gia tố tụng khác:

Người làm chứng:

+ Bà Trần Thị O, sinh năm 1974. “Có mặt”.

+ Anh Trần Mạnh H, sinh năm 1985. “Vắng mặt”.

+ Chị Trần Thúy H, sinh năm 1986. “Vắng mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 19 giờ 30 phút ngày 01-12-2020, Lương Hồng N một mình gọi xe taxi từ nhà trọ ở thôn D, xã T để đi ra khu vực đường P, thành phố Nam Định để tìm mua ma túy về sử dụng. Tại đây, N gặp và mua của một người đàn ông dáng người cao, đội mũ, đeo khẩu trang (N không rõ họ tên, địa chỉ của người này) 02 túi ma túy đá với giá 3.000.000đồng. Sau đó, N để số ma túy vừa mua được vào túi áo bên trái đang mặc rồi lại gọi xe taxi quay về nhà trọ. Khi N đang đứng một mình trước cửa quán gội đầu Hoàn Mỹ thuộc khu vực thôn D, xã T thì bị tổ công tác Phòng CSĐT tội phạm về ma túy Công an tỉnh Nam Định yêu cầu kiểm tra. Biết không thể che giấu được nên N đã tự giác giao nộp cho Công an 02 túi ni lông màu trắng, kích thước mỗi túi (4x6)cm, bên trong mỗi túi đều chứa chất rắn dạng tinh thể màu trắng. Công an đã lập biên bản phạm tội quả tang, thu giữ và niêm phong toàn bộ số ma túy thu giữ của N được ký hiệu N. Ngoài ra, còn thu giữ của N 01 điện thoại Iphone màu ghi đen và 01 điện thoại Iphone màu trắng bạc đều đã cũ.

Tại bản kết luận giám định số 1192/GĐKTHS ngày 03-12-2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định đã kết luận: Mẫu chất rắn dạng tinh thể màu trắng trong 02 túi ni lông màu trắng, kích thước mỗi túi khoảng (4x6)cm trong phong bì thư được niêm phong ký hiệu N gửi giám định đều là ma túy. Loại ma túy: Methamphetamine. Tổng khối lượng mẫu N là : 8,046 gam.

Tại bản Cáo trạng số 11/CT - VKSVB ngày 01-02-2021 của Viện kiểm sát nhận dân huyện V, tỉnh Nam Định đã truy tố Lương Hồng N về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm g khoản 2 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa sơ thẩm:

* Bị cáo N đã thành khẩn khai nhận về hành vi tàng trữ trái phép ma túy của mình như nội dung đã nêu trên và xin giảm nhẹ một phần hình phạt vì bố đau yếu, gia đình có hoàn cảnh khó khăn.

* Bà Trần Thị O không có ý kiến gì về việc nhận và quản lý hai chiếc điện thoại cho bị cáo.

* Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên toà giữ nguyên quan điểm truy tố hành vi của bị cáo N về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” như bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Lương Hồng N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Về hình phạt: Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Lương Hồng N từ 06 năm đến 06 năm 06 tháng tù.

Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

- Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy đã thu giữ của N.

- Về án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo N phải chịu theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện V, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện V, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về chứng cứ và tội danh đối với hành vi của bị cáo: Hành vi phạm tội của bị cáo được chứng minh bằng lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bằng lời khai của những người làm chứng và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thu thập trong quá trình điều tra như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang; Biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ; Bản kết luận giám định của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định; nên có đủ căn cứ để kết luận: Khoảng 20 giờ 00 phút, ngày 01-12-2020 tại khu vực thôn D, xã T, huyện V, tỉnh Nam Định, Lương Hồng N đã có đã có hành vi tàng trữ trái phép 8,046 gam Methamphetamin với mục đích để sử dụng thì bị tổ công tác Phòng CSĐT tội phạm về ma túy Công an tỉnh Nam Định phát hiện, bắt quả tang.

Như vậy, hành vi của bị cáo N đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Do đó, bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội của mình.

[3] Về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội: Hành vi nêu trên của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội vì đã xâm phạm tới chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội tại địa phương.

[4] Về nhân thân; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo:

Về nhân thân: Bị cáo N có nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự gì. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, truy tố cũng như tại phiên toà bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, nên bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51của Bộ luật Hình sự.

[5] Về đường lối xử lý: Căn cứ vào tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội, nhân thân, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo; Hội đồng xét thấy bị cáo N là người nghiện ma túy và cố ý thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy với mục đích sử dụng. Điều đó chứng tỏ ý thức chấp hành pháp luật của bị cáo kém nên cần phải có mức hình phạt nghiêm minh đối với bị cáo và cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định mới có đủ các điều kiện để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người công dân có ích cho gia đình, cho xã hội và để răn đe, giáo dục phòng ngừa chung.

Về hình phạt bổ sung: Bị cáo tàng trữ ma túy với mục đích để sử dụng nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6]. Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy là Methamphetamine đã thu giữ của bị cáo.

Hai chiếc điện thoại đã thu giữ của bị cáo; ngày 31-12-2020, cơ quan CSĐT Công an huyện V đã trả lại 02 chiếc điện thoại di động này cho bà Trần Thị O (Là mẹ đẻ của N). Tại phiên tòa bị cáo và bà O không có yêu cầu và đề nghị gì do đó Hội đồng không xem xét.

[7]. Về tư cách tham gia tố tụng: Do bị cáo và bà O không có yêu cầu, đề nghị liên quan gì đến hai chiếc điện thoại di động. Vì vậy Hội đồng xác định bà Trần Thị O là người làm chứng mà không phải là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong vụ án.

Đối với người đàn ông đã bán ma túy cho bị cáo, Công an tách ra điều tra xử lý sau là phù hợp.

[8]. Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải nộp theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm g khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự:

- Tuyên bố bị cáo Lương Hồng N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

- Xử phạt bị cáo Lương Hồng N 06 (Sáu) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 02-12-2020.

2. Xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy số ma túy là Methamphetamine đã thu giữ (01 phong bì niêm phong số 1192/GĐKTHS của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định).

(Vật chứng có đặc điểm như biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngµy 04-02-2021 giữa Công an huyện V với Chi cục Thi hành án dân sự huyện V).

3. Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Lương Hồng N phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng).

4. Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì bị cáo có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án. Thời hiện thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

149
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 14/2021/HS-ST ngày 11/03/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:14/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vụ Bản - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về