Bản án 14/2021/HS-ST ngày 08/01/2021 về tội cướp giật tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ B - TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 14/2021/HS-ST NGÀY 08/01/2021 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 08 tháng 01 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 734/2020/TLST-HS ngày 11 tháng 12 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 763/2020/QĐXXST- HS ngày 21 tháng 12 năm 2020 đối với các bị cáo:

1/ Dương Văn Q (tên gọi khác: Không), sinh ngày 09/02/2003; tại Đồng Tháp; Hộ khẩu thường trú: Số 318, ấp E, xã Q, huyện D, tỉnh Đồng Tháp; Nơi cư trú: phường L, thành phố B, tỉnh Đồng Nai; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 04/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; Q tịch: Việt Nam; Chức vụ đoàn thể, đảng phái: Không; con ông: không rõ; và bà: Nguyễn Thị Hận, sinh năm 1981 (còn sống); Bị cáo là con duy nhất trong gia đình. Bị cáo chưa có vợ con. Tiền án, tiền sự: Không.

Bị tạm giữ ngày 06/4/2020, chuyển tạm giam theo lệnh số: 426 ngày 09/4/2020 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B. Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố B. (Bị cáo có mặt)

2/ Ngô Hoàng A (tên gọi khác: Không), sinh ngày 18/3/2002 tại Đồng Nai; Nơi cư trú: khu phố Bình Dương, phường L Tân, thành phố B, tỉnh Đồng Nai; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 08/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; Q tịch: Việt Nam; Chức vụ đoàn thể, đảng phái: Không; con ông Ngô Văn Hoàng, sinh năm 1973 (còn sống) và bà Nguyễn Thị Thu An, sinh năm 1981 (còn sống); Bị cáo là con thứ nhất tring gia đình có 02 anh em và chưa có vợ con; Tiền án, tiền sự: Không;

Bị can bị tạm giữ ngày 06/4/2020, sau đó chuyển tạm giam theo lệnh số 427 ngày 09/4/2020 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B. Hiện bị can đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố B. (Bị cáo có mặt)

2/ Bị hại: Chị Võ Thị Nhâm T, sinh năm 1982;

Địa chỉ: Ký túc xá SV Đại Học Lạc Hồng, khu phố 4, phường Bửu Long, thành phố B, tỉnh Đồng Nai.(Vắng mặt)

3/ Người đại diện hợp pháp cho bị cáo Dương Văn Q: Anh Phan Thiện T, sinh năm 1987 - chức vụ: Bí thư đoàn thanh niên phường L, thành phố B, tỉnh Đồng Nai.

Địa chỉ: 843/55, tổ 7, khu phố 7, phường L, thành phố B, tỉnh Đồng Nai.( Có mặt)

4/ Luật sư bào chữa cho bị cáo Dương Văn Q: Luật sư Phạm Văn Đ, sinh năm 1961- Văn phòng Luật sư Phạm Đức - thuộc Đoàn luật sư tỉnh Đồng Nai. (Có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Dương Văn Q và Ngô Hoàng A là bạn bè với nhau. Vào khoảng 12 giờ ngày 06 tháng 04 năm 2020, Q đi đến nhà của Anh tại khu phố 1, phường L Tân, thành phố B chơi và rủ A đi cướp giật tài sản để lấy tiền tiêu xài thì được A đồng ý. Sau đó, đến khoảng 13 giờ 20 phút cùng ngày, Q điều khiển xe môtô hiệu Xiongshi biển số 64H1-050.91 chở Anh ngồi sau đi trên đường Cách mạng tháng tám đoạn phía trước nhà số 28, khu phố 2, phường Quyết Thắng, thành phố B, tỉnh Đồng Nai thì phát hiện thấy chị Võ Thị Nhâm T đang điều khiển xe mô tô biển số 63B1-619.97 di chuyển theo hướng chợ B đi Mũi Tàu, ngược chiều đi với Q và Anh, trong túi quần bên trái của chị T có để 01 chiếc điện thoại di động hiệu Samsung A51 màu xanh hở một phần ra ngoài, Q liền điều khiển xe quay lại chạy áp sát bên trái cùng chiều với xe của chị T để cho Anh dùng tay giật lấy được chiếc điện thoại trên của chị T rồi tăng ga bỏ chạy thì bị chị T truy hô và đuổi theo. Khi chị T và anh Vũ Văn Thắng, sinh năm 2001, ngụ tại phường An Hòa, thành phố B, tỉnh Đồng Nai là người đi đường phụ giúp đuổi theo Q và A đến đoạn đường cầu An Hảo thuộc phường An Bình thì Q và A bị té ngã xuống đường, sau đó để xe lại bỏ chạy thì bị anh Thắng đuổi theo bắt được Q và A giao cho Công an phường An Bình lập hồ sơ chuyển Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B bắt khẩn cấp, khởi tố, điều tra, xử lý.

Vật chứng của vụ án:

- 01 chiếc điện thoại di động hiệu Samsung A51 màu xanh, model: AS- A515R/DSN, số imei: 352353113929118 và 01 Giấy đăng ký xe môtô biển số 63B1- 619.97 mang tên Võ Thị Nhâm T, thu giữ của bị cáo Anh, là tài sản và giấy tờ của chị T nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B đã trả lại cho chị T;

Tại bản kết luận định giá tài sản số: 183/TCKH-HĐĐG ngày 11/5/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố B kết luận: “01 điện thoại di động hiệu Samsung A51 màu xanh, model: AS-A515R/DSN, số imei: 352353113929118, đã qua sử dụng, chất lượng còn lại 90%, trị giá 6.471.000 đồng (Sáu triệu, bốn trăm bảy mươi mốt nghìn đồng)”.

- Về trách nhiệm dân sự: Bị hại chị Võ Thị Nhâm T đã nhận lại tài sản, không yêu cầu bồi thường.

Bản cáo trạng số: 694/CT/VKS-BH ngày 19/11/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, tỉnh Đồng Nai đã truy tố bị các bị cáo Dương Văn Q, Ngô Hoàng A ra trước Toà án nhân dân thành phố B, tỉnh Đồng Nai để xét xử về tội “Cướp giật tài sản” theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố trình bày lời luận tội và tranh luận đã nêu: Các bị cáo Dương Văn Q, Ngô Hoàng A đã có hành vi cướp giật chiếc điện thoại Sam sung A51 của chị Võ Thị Nhâm T có giá trị 6.471.000 (Sáu triệu bốn trăm bảy mươi mốt ). Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo Q có vai trò là người khởi xướng, rủ rê, đồng thời là người trực tiếp điều khiển xe mô tô cháp áp sát bị hại để cho bị cáo Anh giật điện thoại của bị hại, còn bị cáo Anh là giúp sức tích cực và là người trực tiếp giật điện thoại của bị hại nên cần xử lý nghiêm các bị cáo bằng một mức án thật nghiêm và tương xứng với từng bị cáo. Bị cáo Q là người phạm tội dưới 18 tuổi nên áp dụng Điều 101 Bộ luật hình sự xem xét cho bị cáo khi lượng hình. Tuy nhiên trong quá trình điều tra và tại phiên toà hôm nay các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; các bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án tiền sự nghĩ nên xét xét giảm nhẹ cho các bị cáo một phần hình. Do đó giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự, sửa đổi, bổ sung năm 2017; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 tuyên bố các bị cáo Dương Văn Q, Ngô Hoàng A phạm tội “Cướp giật tài sản” và xử phạt bị cáo Dương Văn Q, Ngô Hoàng A mức án từ 03 (ba) năm đến 03(ba) năm 06 (sáu) tháng tù giam.

Về xử lý vật chứng:

- 01 chiếc điện thoại di động hiệu Samsung A51 màu xanh, model: AS- A515R/DSN, số imei: 352353113929118 và 01 Giấy đăng ký xe môtô biển số 63B1- 619.97 mang tên Võ Thị Nhâm T là tài sản và giấy tờ của chị T nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B đã trả lại cho chị T.

Về trách nhiệm dân sự: Chị Võ Thị Nhâm T đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bồi thường.

Ý kiến của luật sư bào chữa cho bị cáo Q: Viện kiểm sát nhân dân thành phố B truy tố bị cáo Dương Văn Q về tội “ Cướp giật tài sản” theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật nên luật sư không tranh luận gì về tội danh. Khi lượng hình đối với bị cáo, xét thấy quá trình điều tra và tại phiên toà hôm nay bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo có nhân thân tốt chưa có tiền án, tiền sự; phạm tội khi chưa đủ 18 tuổi. Bị cáo có hoàn cảnh khó khăn và không được học hành, giáo dục từ nhỏ nên khả năng hiểu biết pháp luật còn hạn chế. Từ những tình tiết giảm nhẹ trên Luật sư kính mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để sớm về với gia đình.

Các bị cáo không ai tranh luận và bào chữa về hành vi đã truy tố, còn lời nói sau cùng của các bị cáo mong Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố B, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo và người bị hại, người đại diện hợp pháp của bị cáo, luật sự bào chữa cho bị cáo không có có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Xét theo các tài liệu, chưng cứ có trong hồ sơ và lời khai của các bị cáo Dương Văn Q, Ngô Hoàng A tại phiên toà hôm nay cho thấy các bị cáo đã có hành vi nhanh chóng chiếm đoạt trái phép tài sản của người khác một cách công khai rồi tẩu thoát cụ thể như sau: vào khoảng 13 giờ 20 phút ngày 06 tháng 04 năm 2020, tại đoạn đường Cách mạng tháng tám phía trước nhà số 28, khu phố 2, phường Quyết Thắng, thành phố B, tỉnh Đồng Nai, Dương Văn Q và Ngô Hoàng A đã có hành vi sử dụng xe môtô hiệu Xiongshi biển số 64H1-050.91 cướp giật 01 chiếc điện thoại di động hiệu Samsung A51, trị giá 6.471.000 đồng (Sáu triệu, bốn trăm bảy mươi mốt nghìn đồng) của chị Võ Thị Nhâm T thì bị bắt. Do đó các bị cáo đã phạm tội “Cướp giật tài sản” tội phạm và hình phạt theo điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự năm 2015.

kiểm sát vừa nêu trên là có cơ sở chấp nhận.

[3] Hành vi phạm tội của các bị cáo là rất nghiêm trọng, táo bạo, liều lĩnh, dùng thủ đoạn nguy hiểm, xem thường pháp luật, đã lợi dụng sơ hở của người khác dùng xe mô tô áp sát người bị hại để giật tài sản một cách công khai ngay trên đường phố giữa ban ngày là không những trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của công dân mà còn có thể ảnh hưởng đến tính mạng, sức khoẻ của người khác được pháp luật bảo vệ và gây mất trật tự trị an tại địa phương. Các bị cáo nhận thực được việc làm của mình là sai, vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện nhằm mục đích có tiền để thoả mãn nhu cầu tiêu xài cá nhân. Trong vụ án này chỉ là đồng phạm giản đơn, sự cấu kết thực hiện phạm tội không chặt chẽ nên không được coi là “có tổ chức” nhưng do bị cáo Q có vai trò là người khởi xướng, rủ rê, đồng thời là người trực tiếp điều khiển xe mô tô chạy áp sát bị hại để cho bị cáo Anh giật điện thoại của bị hại, còn bị cáo Anh là giúp sức tích cực và là người trực tiếp giật điện thoại của bị hại như vừa nêu trên nên mức án áp dụng với các bị cáo phải tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo gây ra theo quy định tại Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015. Trong vụ án này bị cáo Q là người dưới 18 tuổi phạm tội do đó cần áp dụng Điều 101 Bộ luật hình sự để tuyên một mức án phù hợp với bị cáo Q.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự của các bị cáo: Không có.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; có nhân thân tốt chưa có tiền án, tiền sự quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[6] Về hình phạt bổ sung: Theo khoản 5 Điều 171 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 thì “ Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng” do đó bị cáo Anh còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền. Tuy nhiên, căn cứ vào tài liệu chứng cứ và lời khai tại phiên tòa của bị cáo Anh cho thấy bị cáo không có nghề nghiệp và không có điều kiện về kinh tế nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo Anh.

Bị cáo Dương Văn Q là người dưới 18 tuổi phạm tội nên không áp dụng hình phạt bổ sung với bị cáo Q.

[7] Về xử lý vật chứng:

01 chiếc điện thoại di động hiệu Samsung A51 màu xanh, model: AS- A515R/DSN, số imei: 352353113929118 và 01 Giấy đăng ký xe môtô biển số 63B1- 619.97 mang tên Võ Thị Nhâm T là tài sản và giấy tờ của chị T nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B đã trả lại cho chị T là phù hợp.

- 01 chiếc xe môtô hiệu Xiongshi biển số 64H1-050.91 thu giữ của bị cáo Q, là phương tiện các bị cáo đã sử dụng vào việc phạm tội. Bị cáo Q xác định chiếc xe do bị cáo mua lại của người không rõ họ tên và địa chỉ. Kết quả tra cứu thể hiện: chiếc xe trên do Huỳnh Thanh Tùng (ngụ tại tổ 7, khóm 2, thị trấn Cái Vòn, huyện Bình Minh, chưa có kết quả nên tách ra tiếp tục xác minh, làm rõ và xử lý sau.

[8] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại chị Võ Thị Nhâm T đã nhận lại tài sản, không yêu cầu các bị cáo bồi thường gì thêm nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét, giải quyết.

[9] Về vấn đề khác: Quá trình điều tra bị cáo Dương Văn Q khai bị cáo sinh ngày 09/02/2002. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B xác minh tại Uỷ ban nhân dân xã Phú Thọ, huyện Tam Nông, tỉnh Đồng Tháp và Uỷ ban đã cung cấp trích sao khai sinh của bị cáo Dương Văn Q. Trong giấy khai sinh thể hiện: Dương Văn Q, sinh ngày 09/02/2003 có mẹ là bà Nguyễn Thị Hận, sinh năm 1981, không có họ và tên cha. Tại biên bản xác minh ngảy 11/10/2010 của Uỷ ban nhân dân xã Phú Thọ, huyện Tam Nông, tỉnh Đồng Tháp cung cấp: Dương Văn Q có cha thì không rõ; mẹ là Nguyễn Thị Hận, sinh năm 1981, hiện tại bà Hận đã bỏ đi khỏi địa phương từ năm 2016 đến nay, không rõ là đi đâu. Do không biết rõ được cha mẹ của bị cáo Dương Văn Q hiện đang ở đâu để đưa tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện hợp pháp của bị cáo nên áp dụng Thông tư liên tịch số 06/2018/TTLT-VKSNTC-TANDTC- BCA-BTP-BLDTBXH ngày 21/12/2018 Cơ quan điều tra cử đại diện Đoàn viên thanh niên là người đại diện cho bị cáo Q tại phiên toà.

[10] Về án phí: Các bị cáo Dương Văn Q, Ngô Hoàng A phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[11] Nhận định về phần trình bày của Kiểm sát viên, người bào chữa cho bị cáo tại phiên tòa:

- Đối với phần trình bày của Kiểm sát viên: Cáo trạng truy tố bị cáo về tội danh và đề nghị mức hình phạt là phù hợp quan điểm Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

- Đối với phần trình bày của người bào chữa cho bị cáo phù hợp một phần quan điểm Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Tuyên bố các bị cáo Dương Văn Q, Ngô Hoàng A phạm tội "Cướp giật tài sản".

2. Về điều luật áp dụng và xử phạt:

Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 171; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 58, Điều 101 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017:

Xử phạt bị cáo Dương Văn Q: 03 (ba) năm tù giam. Thời hạn tù tính từ ngày 06/4/2020.

Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 171; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017:

Xử phạt bị cáo Ngô Hoàng A: 03 (ba) năm tù giam. Thời hạn tù tính từ ngày 06/4/2020.

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, các bị cáo Dương Văn Q, Ngô Hoàng A mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 333 Bộ Luật Tố tụng hình sự:

Bị cáo Dương Văn Q, Ngô Hoàng A, đại diện hợp pháp và luật sư bào chữa cho bị cáo Dương Văn Q có mặt được kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

187
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 14/2021/HS-ST ngày 08/01/2021 về tội cướp giật tài sản

Số hiệu:14/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về