Bản án 14/2021/HS-ST ngày 01/07/2021 về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN HỒNG, TỈNH ĐỒNG THÁP

 BẢN ÁN 14/2021/HS-ST NGÀY 01/07/2021 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ

Ngày 01 tháng 7 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tân Hồng, tỉnh Đồng Tháp mở phiên tòa xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số:13/2021/TLST-HS ngày 11 tháng 6 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:14/2021/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 6 năm 2021 đối với bị cáo:

Trần Anh H, sinh năm 2001 tại tỉnh Đồng Tháp; nơi cư trú: Ấp B, xã B, huyện T, tỉnh Đồng Tháp; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Phi H, sinh năm 1980 và bà Nguyễn Thị P, sinh năm 1978; Anh chị em ruột: Không; Tiền án: Chưa, Tiền sự: Không; Bị cấm đi khỏi nơi cư trú kể từ ngày 22-03-2021.

(Bị cáo đang tại ngoại, có mặt tại phiên tòa).

- Bị hại: Nguyễn Vĩnh N, sinh năm 2001 (đã chết).

- Người đại diện hợp pháp của bị hại:

1. Nguyễn Văn N, sinh năm 1980 (cha của bị hại) (có đơn xin xét xử vắng mặt).

2. Nguyễn Thị Tuyết N, sinh năm 1983 (mẹ của bị hại) (có đơn xin xét xử vắng mặt).

Cùng cư trú: Ấp Đ, xã T, huyện T, tỉnh Đồng Tháp.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Nguyễn Văn N, sinh năm 1980 (cha của bị hại) (có đơn xin xét xử vắng mặt).

2. Nguyễn Thị Tuyết N, sinh năm 1983 (mẹ của bị hại) (có đơn xin xét xử vắng mặt).

Cùng cư trú: Ấp Đ, xã T, huyện T, tỉnh Đồng Tháp.

- Người làm chứng:

1. Nguyễn Công T, sinh năm 1988 (Có mặt).

Cư trú: Ấp A, xã Phú Cường, huyện Tam Nông, tỉnh Đồng Tháp.

2. Nguyễn Thế D, sinh năm 2001 (Có mặt).

Cư trú: Ấp Hòa Long, xã Hòa An, thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp.

3. Trần Đăng K, sinh năm 1997 (Có mặt).

Cư trú: Ấp K9, xã Phú Đức, huyện Tam Nông, tỉnh Đồng Tháp.

4. Nguyễn Văn G, sinh năm 1955 (Có mặt).

5. Bùi Thị L, sinh năm 1954 (Có mặt).

Cùng cư trú: Ấp A, xã A, huyện T, tỉnh Đồng Tháp.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 17 giờ ngày 21-02-2021, Trần Anh H cùng với các anh Nguyễn Vĩnh N, Nguyễn Thế D, Nguyễn Đăng K, Nguyễn Công T (Tất cả là công nhân tại Công ty Hà T ở ấp K, xã P, huyện T, tỉnh Đồng Tháp) đến quán T N Tình ở ấp A, xã A, huyện T, tỉnh Đồng Tháp để nhậu, cả nhóm uống hết 01 thùng bia thì nghỉ uống, lúc này Trần Anh H điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 66B1-601.73 (có giấy phép lái xe theo quy định) chở anh Nguyễn Vĩnh N ngồi phía sau, chạy tốc độ khoảng 40 – 50 km/h hướng từ xã An Phước, huyện Tân Hồng về xã Phú Hiệp, huyện Tam Nông, khi đến ấp An Phát, xã An Phước, huyện Tân Hồng thì H điều khiển xe chạy vượt qua xe của anh Nguyễn Thế D, Nguyễn Đăng K và Nguyễn Công T chạy cùng chiều phía trước, khi vượt qua được khoảng 100m thì H nhìn thấy phía trước có xe mô tô chạy ngược lại nên H điều khiển xe chạy về phía bên phải và va chạm vào bội gà làm bằng sắt (bội dùng để nhốt gà bán) để dưới mé đường, sau đó xe tiếp tục va chạm vào trụ đèn đường bên phải theo chiều đi, làm H và anh N ngã xuống đường, sau đó mọi người đưa H và anh N đến bệnh viện đa khoa khu vực Hồng Ngự cấp cứu. Hậu quả: anh N đã tử vong.

Vật chứng vụ án thu giữ:

- 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại xe Wave alpha, màu trắng-đen-bạc, biển kiểm soát: 66B1 – 601.73 và 01 giấy xe mô tô do Trần Anh H đứng tên đăng ký.

* Tại biên bản khám nghiệm hiện trường vụ tai nạn giao thông ngày 22-02- 2021 thể hiện như sau:

- Hiện trường vụ tai nạn giao thông đường bộ nằm trên đường bên phải theo hướng từ UBND xã Tân Phước đi UBND xã An Phước, đoạn đường thẳng, mặt đường được kết cấu bằng bê tông nhựa, rộng 6,5m, có vạch kẻ đường dạng đứt quãng, có biển báo hiệu giao thông đường bộ: biển báo giao nhau với đường không ưu tiên; biển báo nguy hiểm khu vực có trẻ em qua đường.

- Xe mô tô biển kiểm soát: 66B1 – 601.73 ngã nghiêng bên phải trên lề đất bên phải theo hướng UBND xã Tân Phước đi UBND xã An Phước, đầu xe hướng về lề đường bên phải, đuôi xe hướng về nhà ông Nguyễn Văn Đoan; Trục trước cách lề 1,43m và cách trụ đèn đường là 1,10m; Trục sau cách lề 2,45m và cách trụ cổng hàng rào nhà ông Nguyễn Văn Đoan 3,4m.

- Trụ đèn đường nằm trên lề đất bên phải, trụ đèn đường kết cấu bằng bê tông cốt thép có dạng hình vuông trụ đứng, kích thước một cạnh vuông là 0,1m, trên thân trụ đèn có vết ma sát và rạn nứt bê tông.

* Tại bản kết luận giám định pháp y về tử thi số: 220/TTh-TTPY ngày 26-02- 2021 của Trung tâm pháp y - Sở y tế tỉnh Đồng Tháp kết luận: Nguyên nhân tử vong của anh Nguyễn Vĩnh N: Bị chấn thương vùng đầu nứt vỡ phức tạp xương sọ dẫn đến xuất huyết não (Bút lục: 10 – 11).

Tại Cáo trạng số 13/CT- VKSTH ngày 09 - 6 - 2021 Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Hồng, tỉnh Đồng Tháp đã truy tố bị cáo Trần Anh H về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 260 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Trần Anh H thừa nhận toàn bộ hành vi của bị cáo như nội dung Cáo trạng truy tố. Bị cáo thừa nhận điều khiển xe vi phạm quy tắc giao thông đường bộ dẫn đến gây tai nạn giao thông, hậu quả làm anh Nguyễn Vĩnh N tử vong.

Trong đơn yêu cầu xét xử vắng mặt và lời khai trong quá trình điều tra, những người đại diện hợp pháp của bị hại Nguyễn Vĩnh N là ông Nguyễn Văn N và bà Nguyễn Thị Tuyết N (là cha, mẹ của anh N) khai đã thỏa thuận bồi thường và nhận số tiền 25.000.000 đồng từ bị cáo Trần Anh H xong nên về dân sự không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm. Về hình sự: Đã có đơn xin bãi nại, không yêu cầu xử lý hình sự và xin giảm nhẹ hình phạt đối với bị cáo H.

Khi luận tội, Kiểm sát viên vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Trần Anh H về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo điểm a khoản 1 Điều 260 Bộ luật hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo: Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; đã thỏa thuận bồi thường cho đại diện hợp pháp của bị hại Nguyễn Vĩnh N là ông Nguyễn Văn N và bà Nguyễn Thị Tuyết N (cha mẹ anh N) số tiền 25.000.000 đồng quy định tại các điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Ngoài ra, ông N và bà Ng có đơn không yêu cầu xử lý hình sự, dân sự và xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo và bị cáo có bà nội tên Trương Thị M được tặng bằng khen của Chính phủ vì đã góp công sức vào cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, nên đây được coi là tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Từ đó, Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 65 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Trần Anh H mức án từ 01 (một) năm đến 01(một) năm 06 (sáu) tháng tù, nhưng cho bị cáo hưởng án treo.

Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo đã thỏa thuận bồi thường xong với đại diện hợp pháp của bị hại nên không xem xét giải quyết.

Về xử lý vật chứng: Đã xử lý xong ở giai đoạn điều tra nên không xem xét giải quyết. Những người tham gia tố tụng không tranh luận.

Trong lời nói sau cùng, bị cáo Trần Anh H xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt để bị có cơ hội hòa nhập cộng đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng trong vụ án, Hội đồng xét xử xét thấy: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Tân Hồng, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Hồng, Kiểm sát viên trong quá trình tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Từ khi khởi tố vụ án cho đến tại phiên tòa sơ thẩm những người tham gia tố tụng không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Xét thấy các hành vi, quyết định tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung: Tại phiên tòa, bị cáo Trần Anh H đã thành khẩn khai nhận hành vi vi phạm như Cáo trạng đã nêu. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với hồ sơ hiện trường, vật chứng, kết quả giám định, lời khai của người làm chứng và những tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Từ đó, có đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 17 giờ ngày 21/02/2021, Trần Anh H cùng với các anh Nguyễn Vĩnh N, Nguyễn Thế D, Nguyễn Đăng K, Nguyễn Công T (Tất cả là công nhân tại Công ty Hà T ở ấp K, xã P, huyện T, tỉnh Đồng Tháp) đến quán T Na Tình ở ấp A, xã A, huyện T, tỉnh Đồng Tháp để nhậu, cả nhóm uống hết 01 thùng bia thì nghỉ uống, lúc này Trần Anh H điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 66B1-601.73 (có giấy phép lái xe theo quy định) chở anh Nguyễn Vĩnh N ngồi phía sau, chạy tốc độ khoảng 40 – 50 km/h hướng từ xã An Phước, huyện Tân Hồng về xã Phú Hiệp, huyện Tam Nông, khi đến ấp An Phát, xã An Phước, huyện Tân Hồng thì H điều khiển xe chạy vượt qua xe của anh Nguyễn Thế D, Nguyễn Đăng K và Nguyễn Công T chạy cùng chiều phía trước, khi vượt qua được khoảng 100m thì H nhìn thấy phía trước có xe mô tô chạy ngược lại nên H điều khiển xe chạy về phía bên phải và va chạm vào bội gà làm bằng sắt (bội dùng để nhốt gà bán) để dưới mé đường, sau đó xe tiếp tục va chạm vào trụ đèn đường bên phải theo chiều đi, làm H và anh N ngã xuống đường, sau đó mọi người đưa H và anh N đến bệnh viện đa khoa khu vực Hồng Ngự cấp cứu. Hậu quả: anh N đã tử vong. Hành vi của bị cáo đã vi phạm điểm b khoản 7 Điều 6 Nghị định 100/2019/NĐ-CP ngày 30-12-2019 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt và khoản 1 Điều 9 Luật giao thông đường bộ. Vì vậy, hành vi của bị cáo đủ cơ sở cấu thành tội “ Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo điểm a khoản 1 Điều 260 Bộ luật hình sự mà truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Hồng, tỉnh Đồng Tháp đối với bị cáo là hoàn toàn đúng người, đúng tội.

Điều luật trên quy định:

1. Người nào tham gia giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho người khác thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giao giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a) Làm chết người; .” [3] Hội đồng xét xử nhận thấy hành vi trái pháp luật của bị cáo Trần Anh H gây ra đã tước đi mạng sống của bị hại, làm gia đình họ mất đi một người thân không sao tìm lại được. Mặt khác, hành vi phạm tội của bị cáo còn xâm phạm đến an toàn công cộng trên địa bàn, gây tâm lý hoang mang cho người dân khi tham gia giao thông, do vậy cần xét xử bị cáo với mức án nghiêm minh, không chỉ để xử phạt bị cáo mà còn để giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử cũng cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân bị cáo, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

[4] Về nhân thân; tình tiết tăng nặng; tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Về nhân thân: Bị cáo Trần Anh H có nhân thân tốt; chưa có tiền án, tiền sự. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo Trần Anh H phạm tội với lỗi vô ý; sau khi bị hại chết, bị cáo đã có đến gia đình bị hại để thăm viếng, điều này chứng tỏ rằng bị cáo đã ý thức được những lỗi lầm mà bị cáo đã gây ra cho bị hại; Bị cáo đã thỏa thuận bồi thường cho gia đình bị hại số tiền là 25.000.000 đồng bao gồm viện phí, mai táng phí, tổn thất tinh thần...; Trong quá trình điều tra, truy tố cũng như tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo H đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Vì các lẽ đó, Hội đồng xét xử xét thấy cần áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự cho bị cáo. Hơn nữa, những người đại diện hợp pháp của bị hại trong quá trình điều tra cũng như trong đơn xin xét xử vắng mặt đều xin cơ quan tiến hành tố tụng xem xét không xử lý bị cáo về hình sự, dân sự; bị cáo có bà nội tên Trương Thị Mão được tặng bằng khen của Chính phủ vì đã góp công sức vào cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, nên đây được coi là tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Từ phân tích trên, Hội đồng xét xử xét thấy không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định mà áp dụng biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện cũng đủ răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

[5] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 260 Bộ luật Hình sự, bị cáo còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo làm thuê, không có việc làm ổn định. Vì vậy, không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Do không ai yêu cầu nên không đặt ra để giải quyết.

[7] Về xử lý vật chứng: Đã xử lý xong ở giai đoạn điều tra nên Hội đồng xét xử không giải quyết.

[7] Về án phí: Bị cáo Trần Anh H phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[8] Xét thấy phát biểu luận tội và đề nghị xử lý vụ án của Kiểm sát viên tại phiên tòa là có căn cứ nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 260; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51;Điều 65 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố bị cáo Trần Anh H phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.

Xử phạt bị cáo Trần Anh H 01 (Một) năm tù, nhưng cho bị cáo được hưởng án treo, thời gian thử thách là 02 (hai) năm tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 01-7- 2021).

Giao bị cáo Trần Anh H cho Ủy ban nhân dân xã B, huyện T, tỉnh Đồng Tháp giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách. Gia đình của bị cáo có trách nhiệm phối hợp với Ủy ban nhân dân xã B, huyện T, tỉnh Đồng Tháp trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.

Trong thời gian thử thách, nếu bị cáo Trần Anh H cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 (hai) lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc bị cáo Trần Anh H phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Trường hợp đang trong thời gian thử thách mà bị cáo Trần Anh H phạm tội mới, thì Tòa án buộc bị cáo Trần Anh H phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định của Điều 56 Bộ luật hình sự.

Trường hợp bị cáo Trần Anh H thay đổi nơi cư trú trong thời gian thử thách thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 Luật thi hành án hình sự.

2. Về trách nhiệm dân sự: Không ai yêu cầu nên không xem xét giải quyết.

3. Về xử lý vật chứng: Đã xử lý xong ở giai đoạn điều tra nên không xem xét giải quyết.

4. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23, 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30- 12- 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Trần Anh H phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

5. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự, thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

6. Quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 01-7-2021). Riêng đại diện hợp pháp của bị hại và người liên quan không có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày niêm yết bản án theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

156
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 14/2021/HS-ST ngày 01/07/2021 về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ

Số hiệu:14/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Hồng - Đồng Tháp
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 01/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về