Bản án 14/2021/HNGĐ-ST ngày 28/01/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

 TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN PHÚ, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 14/2021/HNGĐ-ST NGÀY 28/01/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Trong ngày 28/01/2021, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện Tân Phú, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 506/2020/TLST-HNGĐ ngày 18 tháng 11 năm 2020 về việc: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 106/2020/QĐXX-ST ngày 31 tháng 12 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 08/2021/QĐST-HNGĐ ngày 19 tháng 01 năm 2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị U, sinh năm 1999.

Địa chỉ: Tổ 4, ấp P, xã P1, huyện T, Đồng Nai.

- Bị đơn: Anh D, sinh năm 1995.

Địa chỉ: Tổ 4, ấp P, xã P1, huyện T, Đồng Nai.

(Chị U có đơn đề nghị xét xử vắng mặt; anh D vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ghi ngày 09/11/2020, các lời khai trong quá trình tố tụng nguyên đơn trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh D tự nguyện tiến tới hôn nhân vào năm 2018, có đăng ký kết hôn tại UBND xã P1, huyện T, tỉnh Đồng Nai và được cấp giấy chứng nhận kết hôn ngày 22/11/2018.

Vợ chồng chung sống hạnh phúc được một thời gian thì bắt đầu xảy ra mâu thuẫn nguyên nhân là do không còn hòa hợp nhau về tính tình, cách ứng xử nên thường xuyên xảy ra cự cãi, xung đột, anh D không quan tâm đến gia đình. Chị đã cố gắng chịu đựng nhưng mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng hơn. Chị và anh D đã sống ly thân từ tháng 7/2020 cho đến nay. Nay chị thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được vì vậy chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh D.

- Về con chung: Vợ chồng có 01 người con chung tên Đinh Thanh Tr, sinh ngày 02/02/2019. Khi ly hôn chị có có nguyện vọng được nuôi dưỡng cháu Tr và không yêu cầu anh D cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung, nợ chung: Không có nên không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.

Sau khi Tòa án tiến hành thụ lý vụ án và tiến hành tống đạt Thông báo thụ lý số 506/2020/TLST- HNGĐ ngày 18 tháng 11 năm 2020 cho anh D. Anh D đã biết được việc chị U xin ly hôn với anh nhưng không có ý kiến trả lời theo quy định của pháp luật. Tòa án đã tiến hành tống đạt giấy triệu tập làm việc, Thông báo phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải cho anh D nhưng anh D không đến Tòa án làm việc nên anh D không có ý kiến trình bày.

Trong quá trình giải quyết vụ án chị U đã cung cấp những tài liệu, chứng cứ sau: Giấy Chứng minh nhân dân của chị U (Bản sao); sổ hộ khẩu của chị U, anh D (Bản sao), Trích lục khai sinh của con chung (Bản sao), Trích lục kết hôn (Bản sao). Bản sao các tài liệu, chứng cứ này bị đơn đã nhận được.

Để giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành thu thập chứng cứ sau: Biên bản xác minh về tình trạng hôn nhân. Tòa án đã ra thông báo về việc thu thập được tài liệu chứng cứ cho các bên đương sự biết. Tòa án đã tiến hành phiên họp kiểm tra giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, chị U không có ý kiến gì và không bổ sung gì thêm.

Ý kiến của Kiểm sát viên: Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 68, Điều 144, Điều 147, điềm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 và khoản 3 Điều 228, Điều 235 của Bộ luật Tố tụng dân sự ; căn cứ các Điều 19, 51, 56, 58, 81, 82, 83 và Điều 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

- Về việc tuân theo pháp luật: Từ khi thụ lý vụ án đến thời điểm trước khi nghị án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, đương sự đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

- Về đường lối giải quyết vụ án:

+ Về quan hệ hôn nhân: Đề nghị chấp nhận đơn yêu cầu ly hôn của chị U, cho chị U được ly hôn anh D.

+ Về con chung: Giao cháu Tr, sinh ngày 02/02/2019 cho chị U trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục là phù hợp quy định tại Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình. Tạm thời anh D không phải cấp dưỡng nuôi con chung do chị U không có yêu cầu.

+ Về tài sản chung, nợ chung: Anh D vắng mặt tại các buổi hòa giải và xét xử nên khi nào các đương sự yêu cầu sẽ giải quyết bằng vụ án khác.

+ Về án phí: Chị U phải nộp 300.000đ án phí DSST về ly hôn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về áp dụng pháp luật tố tụng:

[1.1] Chị U có đơn khởi kiện ly hôn, tranh chấp về việc nuôi con với anh D. Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, Điều 68 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử xác định quan hệ pháp luật trong vụ án này là "Ly hôn, tranh chấp về nuôi con" và xác định chị U là nguyên đơn, anh D là bị đơn.

[1.2] Anh D là bị đơn, có nơi cư trú tại xã P1, huyện T, tỉnh Đồng Nai. Căn cứ theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự, thì Tòa án nhân dân huyện Tân Phú có thẩm quyền thụ lý giải quyết vụ kiện.

[1.3] Chị U có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt. Anh D đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt tại phiên tòa, nên căn cứ vào khoản 1 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án xét xử vắng mặt nguyên đơn chị U và bị đơn anh D theo quy định của pháp luật.

[2] Về áp dụng pháp luật nội dung:

Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn nhận thấy:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị U và anh D tự nguyện tiến tới hôn nhân vào năm 2018, có đăng ký kết hôn tại UBND xã P1, huyện T và được cấp giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 22/11/2018. Như vậy, hôn nhân giữa chị U và anh D được công nhận là hôn nhân hợp pháp. Nay chị U yêu cầu ly hôn, thì Tòa án áp dụng Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình để giải quyết.

Trên cơ sở lời khai của các đương sự , kết quả xác minh thực tế tại địa phương thể hiện: Chị U yêu cầu ly hôn với lý do, vợ chồng không còn hòa hợp nhau về tính tình, cách ứng xử nên thường xuyên xảy ra cự cãi, xung đột, anh D không quan tâm đến gia đình. Chị U và anh D đã sống ly thân từ tháng 7/2020 cho đến nay.

Qua xác minh tại địa phương đã xác định được gia đình chị U, anh D đã xảy ra nhiều mâu thuẫn, không hòa giải đoàn tụ được. Anh D, chị U đã sống ly thân với nhau từ đầu tháng 7/2020 cho đến nay.

Xét, chị U và anh D hiện nay đa không còn sống chung với nhau, bản thân anh D đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng anh D vẫn không đến tòa làm việc, thể hiện anh D không mong muốn hòa giải để vợ chồng cùng đoàn tụ sống chung.

Như vậy, có căn cứ xác định chị U và anh D đã vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ thương yêu, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; vi phạm nghĩa vụ sống chung của vợ chồng được quy định tại Điều 19 Luật Hôn nhân và Gia đình làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Để anh, chị có điều kiện ổn định cuộc sống của mình, căn cứ khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình, Hội đồng xét xử chấp chận yêu cầu của chị U, cho chị U được ly hôn với anh D.

[2.2] Về con chung: Chị U và anh D có 01 con chung: Đinh Thanh Tr, sinh ngày 02/02/2019. Theo các tài liệu chứng cứ trong hồ sơ thể hiện: Từ khi chị U và anh D ly thân, cháu Tr được chị U trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Khi ly hôn, chị U yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu anh D cấp dưỡng nuôi con. Từ các căn cứ trên, để đảm bảo quyền lợi cho con chung, tránh sự xáo trộn đời sống tâm lý của con chung, Hội đồng xét xử quyết định giao cháu Tr, sinh ngày 02/02/2019 cho chị U tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục là phù hợp quy định tại Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình.

Tạm thời anh D không phải cấp dưỡng nuôi con chung do chị U không có yêu cầu.

[2.3] Về tài sản chung, nợ chung: Trong quá trình giải quyết vụ án, anh D không đến Tòa làm việc nên không có lời khai của anh D. Để đảm bảo quyền, lợi ích của chị U, anh D, Hội đồng xét xử tách phần tài sản chung, nợ chung ra để giải quyết bằng vụ kiện khác khi đương sự có yêu cầu.

[3] Về án phí: Chị U phải chịu án phí dân sự sơ thẩm không có giá ngạch là 300.000đ.

Xét quan điểm đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử do đó được chấp nhận.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

- Khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 68, Điều 144, Điều 147, khoản 1 và khoản 3 Điều 228, Điều 235 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Căn cứ các Điều 19, 51, 56, 58, 81, 82, 83 và Điều 84 Luật Hôn nhân và Gia đình;

- Điểm a khoản 1 Điều 24; điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1/ Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị U.

- Về quan hệ hôn nhân: Chị U được ly hôn với anh D.

- Về con chung: Giao cháu Tr, sinh ngày 02/02/2019 cho chị U trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Tạm thời anh D không phải cấp dưỡng nuôi con chung do chị U không có yêu cầu. Anh D được quyền đi lại thăm nom con chung không ai được cản trở. Vì quyền lợi của con chung chị U, anh D có quyền xin thay đổi việc nuôi con và cấp dưỡng nuôi con theo quy định.

- Về tài sản chung, nợ chung: Sẽ được giải quyết bằng vụ án khác khi đương sự có yêu cầu.

2/ Về án phí: Chị U phải nộp 300.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn. Số tiền 300.000 đồng chị U đã nộp theo biên lai thu số 0003827 ngày 18/11/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tân Phú được chuyển thành án phí.

3/ Chị U, anh D có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (Mười lăm) ngày tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

165
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 14/2021/HNGĐ-ST ngày 28/01/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:14/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Phú - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về