Bản án 14/2021/HNGĐ-ST ngày 23/04/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SÔNG MÃ, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 14/2021/HNGĐ-ST NGÀY 23/04/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON 

Ngày 23 tháng 4 năm 2021 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Sông Mã xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình sơ thẩm thụ lý số 73/2021/TLST – HNGĐ, ngày 18/02/2021 về việc: Xin ly hôn, tranh chấp về nuôi con. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 13/2021/QĐXX - DS ngày 08/4/2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Lường Thị N, sinh năm 1990. Nơi ĐKHKTT: Bản T, xã Y, huyện S, tỉnh Sơn La. Vắng mặt tại phiên tòa.

2. Bị đơn: Anh Lò Văn Q, sinh năm 1989. Nơi ĐKHKTT: Bản T, xã Y, huyện S, tỉnh Sơn La.

Hiện đang đang chấp hành án tại Trại giam Thanh Phong, địa chỉ: Thị trấn Nông Cống, huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa. Vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện xin ly hôn đề ngày 18/02/2021 và bản tự khai nguyên đơn chị Lường Thị N trình bày: Chị và anh Lò Văn Q kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện có đăng ký kết hôn tại UBND xã E, huyện S vào năm 2013. Cuộc sống chung hạnh phúc được khoảng 02 năm thì nảy sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do anh Q chơi bời, không tu chí làm ăn, tuy chị đã nhiều lần nhắc nhở và góp ý nhưng anh Q vẫn không chịu thay đổi, đến năm 2018 thì anh Q thực hiện hành vi vi phạm pháp luật và bị kết án phạt tù. Chị thấy không còn tình cảm với anh Q nữa, hôn nhân không thể tiếp tục duy trì được nên có đơn khởi kiện xin được ly hôn với anh Lò Văn Q.

Về con chung: Anh chị có 01 con chung là Lò Thị G (sinh ngày 07/01/2011), nếu được ly hôn chị có nguyện vọng được nuôi con chung và không đề nghị anh Q cấp dưỡng nuôi con cùng.

Về tài sản chung, nợ chung: Chị và anh Q không có tài sản chung và nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết trong vụ án này.

Do anh Lò Văn Q đang chấp hành án phạt tù tại Trại giam Thanh Phong nên Tòa án nhân dân huyện Sông Mã đã tiến hành ủy thác thu thập chứng cứ lấy ý kiến của anh Q về việc xin ly hôn của chị N. Anh Q có ý kiến bằng văn bản thể hiện: Anh và chị N kết hôn và phát sinh mâu thuẫn đúng như chị N đã trình bày, nay chị N có yêu cầu xin được ly hôn anh đồng ý, vì bản thân anh cũng xác định đã không còn tình cảm với chị N từ lâu rồi. Về con chung anh xác nhận anh chị có 01 con chung là cháu Lò Thị G (sinh ngày 07/01/2011) nếu ly hôn anh cũng nhất trí để chị N nuôi dưỡng cháu Lò Thị G vì bản thân anh đang đi chấp hành án phạt tù không thể chăm sóc con được. Về tài sản chung, về nợ chung: Anh và chị N không có tài sản chung và nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết trong vụ án này. Anh Lò Văn Q đã có đơn xin xét xử, giải quyết vụ án vắng mặt.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát phát biểu quá trình kiểm sát việc thụ lý giải quyết vụ án:

- Về tố tụng: Việc thụ lý xây dựng hồ sơ vụ án Tòa án huyện Sông Mã tuân thủ đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Tại phiên tòa hội đồng xét xử tuân thủ theo đúng quy định của pháp luật. Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng kể từ khi thụ lý đến trước thời điểm xét xử đều thực hiện đúng quy định Bộ luật tố tụng Dân sự. Anh Q và chị N đều có đơn xin xét xử vắng mặt nên căn cứ vào Điều 228 Bộ luật tố tụng Dân sự xét xử vắng mặt đối với anh Q, chị N là đúng quy định pháp luật.

- Về nội dung: Cần chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của chị Lường Thị N, xử cho chị N được ly hôn anh Lò Văn Q. Giao cho chị N được Q nuôi dưỡng và chăm sóc con chung là cháu Lò Thị Lan Anh. Chị N và anh Q không có tài sản chung, nợ chung nên không xem xét giải quyết trong vụ án này.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ và đã được xem xét thẩm tra tại phiên tòa, ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã tham gia phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thẩm Q, tố tụng: Vụ án theo đơn khởi kiện xin ly hôn của chị Lường Thị N được Tòa án thụ lý và giải quyết là theo đúng quy định tại Điều 28, 35 và Điều 39 Bộ luật Tố tụng Dân sự.

Về sự vắng mặt của nguyên đơn, bị đơn: Sau khi chị N có đơn khởi kiện xin ly hôn Tòa án đã thụ lý và tiến hành tống đạt thông báo thụ lý vụ án cho anh Lò Văn Q, anh Q đã có ý kiến nhất trí về việc xin ly hôn của chị N, nhưng anh Q đang phải chấp hành án phạt tù nên anh không thể có mặt tại Tòa án để giải quyết việc ly hôn được. Anh Lò Văn Q và chị Lường Thị N đều có đơn xin giải quyết vắng mặt, Tòa án giải quyết theo thủ tục chung và quyết định đưa vụ án ra xét xử là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng Dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Lường Thị N và anh Lò Văn Q chung sống với nhau có đăng ký kết hôn tại UBND xã E, huyện S vào ngày 07/02/2013 là đúng quy định của pháp luật. Căn cứ vào khoản 1 Điều 9 và khoản 1 Điều 11 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 xác định đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp, được pháp luật bảo vệ.

Qua các chứng cứ và tài liệu có trong hồ sơ và tại phiên tòa cho thấy mâu thuẫn gia đình giữa chị N và anh Q đã kéo dài, cuộc sống chung không hạnh phúc và bất đồng quan điểm sống, đến cuối năm 2018 anh Q bị xử phạt tù và hiện nay đang đi chấp hành án tại trại giam Thanh Phong. Xét mâu thuẫn đã kéo dài, tình cảm vợ chồng và cuộc sống chung không còn, việc anh Q đi chấp hành án càng khiến cho cho cuộc sống chung không thể tiếp tục, mục đích của hôn nhân không đạt được. Việc quyết định cho chị N ly hôn anh Q là có căn cứ, phù hợp với Điều 56, 57 của Luật hôn nhân và gia đình 2014.

[3] Về con chung: Trong quá trình chung sống chị N và anh Q đều thừa nhận có 01 con chung là cháu Lò Thị G (sinh ngày 07/01/2011), cả hai anh chị đều nhất trí để chị N trực tiếp nuôi con chung, điều này cũng phù hợp với nguyện vọng của cháu Lan Anh. Chị N không yêu cầu anh Q phải cấp dưỡng nuôi con cùng và bản thân anh Q đang phải chấp hành án phạt tù, không có điều kiện về kinh tế nên không buộc anh Q phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị N.

[4] Về tài sản chung, nợ chung: Do chị N và anh Q đều khai nhận không có tài sản chung, không có nợ chung nên không đặt vấn đề giải quyết trong vụ án này.

[5] Về án phí: Chị Lường Thị N phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định chung.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; Điều 228 Bộ luật tố tụng Dân sự;

Căn cứ vào khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56; Điều 57; 58 Luật hôn nhân gia đình 2014;

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận đơn khởi kiện xin ly hôn, xin nuôi con chung của chị Lường Thị N đối với anh Lò Văn Q.

- Xử cho chị Lường Thị N được ly hôn anh Lò Văn Q.

- Giao con chung là Lò Thị G (sinh ngày 07/01/2011) cho chị Lường Thị N trực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng cho đến khi đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

Anh Lò Văn Q không phải cấp dưỡng nuôi con cùng chị N. Anh Q có Q đi lại thăm nom, chăm sóc con chung không ai được ngăn cản.

2. Về án phí: Chị Lường Thị N phải chịu án phí xin ly hôn là 300.000 đồng, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số AA/2019/0001568 ngày 18 tháng 02 năm 2020 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Sông Mã. Chị Lường Thị N đã nộp đủ án phí.

3. Về Q kháng cáo: Chị Lường Thị N, anh Lò Văn Q được Q kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án hoặc bản án được niêm yết đúng quy định.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

169
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 14/2021/HNGĐ-ST ngày 23/04/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:14/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sông Mã - Sơn La
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về