Bản án 14/2020/HS-ST ngày 24/08/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHONG THỔ, TỈNH LAI CHÂU

BẢN ÁN 14/2020/HS-ST NGÀY 24/08/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 24 tháng 8 năm 2020 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Phong Thổ, tỉnh Lai Châu xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 13/2020/TLST-HS ngày 04 tháng 3 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 15/2020/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 4 năm 2020 đối với bị cáo: Vừ A S, sinh năm 19..; nơi sinh: huyện X, tỉnh Y; nơi cư trú: bản ….; nghề nghiệp: làm ruộng; trình độ văn hóa: 0/10; dân tộc: Mông; giới tính: nam; tôn giáo: đạoTin lành; con ông Vừ A S(đã chết) và bà Sùng Thị V(đã chết); vợ: Lầu Thị H(sinh năm 1977); tiền án: không; tiền sự: không;

Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 03 tháng 5 năm 2019 đến ngày 12 tháng 5 năm 2019; ngày 12 tháng 5 năm 2019 bị cáo được tại ngoại theo Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số: 22/CĐKNCT ngày 12 tháng 5 năm 2019 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Phong Thổ, tỉnh Lai Châu; trong giai đoạn truy tố, bị cáo có hành vi bỏ trốn và bị truy nã, bị cáo bị bắt truy nã ngày 14 tháng 02 năm 2020 và bị tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện Phong Thổ; có mặt.

Người bào chữa cho bị cáo: Ông Nguyễn Công Hưởng – Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý tỉnh Lai Châu. Có mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 08 giờ 00 phút ngày 03 tháng 5 năm 2019, Vừ A S đang làm thuê tại khu vực Sa Tổng thuộc bản Sảng Sang, xã Mù Sang, huyện Phong Thổ, tỉnh Lai Châu. Do lên cơn nghiện ma túy nên Vừ A S xuống khu vực suối biên và lội sang Trung Quốc để tìm mua Heroine về sử dụng. S đi vào lán nương chuối gần bờ suối thì gặp một người đàn ông Trung Quốc khoảng trên 30 tuổi, S không biết tên và địa chỉ cụ thể. Qua trao đổi và trò chuyện với nhau bằng tiếng Quan Hỏa, người đàn ông đồng ý bán cho S 01 gói Heroine với giá 20 đồng Nhân dân tệ (NDT). S đưa tiền cho người đàn ông, người đàn ông nhận tiền và cất vào túi áo ngực đang mặc, sau đó lấy ở gốc chuối bên cạnh lán nương đưa ra cho S 01 gói Heroine được gói bằng mảnh nilon màu đỏ buộc túm lại. Nhận được gói Heroine, S không kiểm tra mà cầm trên tay trái rồi lội suối quay về Việt Nam. Khoảng 09 giờ 30 phút, khi S đi đến khu vực đường dân sinh thuộc bản Sàng Sang, xã Mù Sang, huyện Phong Thổ thì bị Đồn biên phòng Dào San, Bộ đội biên phòng tỉnh Lai Châu phát hiện, bắt quả tang, thu giữ trên tay trái của S một gói Heroine được gói bằng mảnh nilon màu đỏ buộc túm lại.

Tại Biên bản mở niêm phong, xác định khối lượng lấy mẫu giám định và niêm phong mẫu vật hồi 16 giờ 00 phút ngày 03 tháng 5 năm 2019 kết luận: mẫu chất bột màu trắng thu giữ của Vừ A Sinh có khối lượng 0,51 gam.

Tại Bản kết luận giám định số: 204/GĐ-KTHS ngày 06 tháng 5 năm 2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Lai Châu kết luận: Một mẫu chất bột màu trắng thu giữ của Vừ A S gửi đến giám định là ma tuý, loại Heroine.

Tại Bản cáo trạng số: 13/CT-VKS ngày 04 tháng 3 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Phong Thổ, tỉnh Lai Châu đã truy tố ra trước Tòa án nhân dân huyện Phong Thổ, tỉnh Lai Châu để xét xử bị can Vừ A S về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận đã thực hiện hành vi phạm tội như Viện kiểm sát nhân dân huyện Phong Thổ, tỉnh Lai Châu đã truy tố, không oan, không sai.

* Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử:

Về tội danh: Tuyên bố, bị cáo phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”;

Về điều luật: áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38, Điều 50, khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự, khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự; xử phạt bị cáo từ 18 tháng đến 24 tháng tù;

Tich thu, tiêu hủy 0,39 gam Heroine còn lại sau giám định và phong bì dùng niêm phong vật chứng Về hình phạt bổ sung: xét hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn, không có khả năng thi hành hình phạt tiền, đề nghị không áp dụng hình phạt tiền đối với bị cáo theo khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự Về án phí đề nghị miễn án phí cho bị cáo.

* Người bào chữa cho bị cáo đề nghị hội đồng xét xử xem xét các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS xử phạt bị cáo ở mức thấp nhất của khung hình phạt. Miễn hình phạt bổ sung, miễn án phí cho bị cáo vì bị cáo sinh sống ở vùng đặc biệt khó khăn về kinh tế.

Bị cáo nhất trí với ý kiến người bào chữa và không có ý kiến gì tranh luận thêm. Bị cáo đề nghị hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, căn cứ vào lời khai của bị cáo và ý kiến của kiểm sát viên, người bào chữa.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, người bào chữa trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử: Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, Điều tra viên đã thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của mình theo quy định tại Điều 37 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Kiểm sát viên đã thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của mình theo quy định tại Điều 42 của Bộ luật Tố tụng hình sự; các tài liệu, chứng cứ được thu thập theo đúng trình tự, thủ tục do Bộ luật Tố tụng hình sự quy định. Nên các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử là hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau: Lời khai nhận hành vi phạm tội của bị cáo tại phiên tòa ngày hôm nay phù hợp với biên bản phạm tội quả tang; biên bản mở niêm phong vật chứng; bản kết luận giám định và lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và các tài liệu chứng cứ khác đã có đủ cơ sở để khẳng định: Hồi 09 giờ 30 phút, ngày 03 tháng 5 năm 2019 tại khu vực bản Sàng Sang, xã Mù Sang, huyện Phong Thổ, tỉnh Lai Châu, Vừ A S đã có hành vi cầm trên tay trái 01 gói Heroine được gói bằng mảnh nilon màu đỏ buộc túm lại có khối lượng 0,51 gam thì bị phát hiện, bắt quả tang.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách quản lý độc quyền các chất ma túy của nhà nước ta. Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của bị cáo là Heroine được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự: Heroine…. Có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam.

Bản thân bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Bị cáo biết tác hại của ma túy và hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật bị nghiêm cấm nhưng vẫn cố ý phạm tội. Vậy Hội đồng xét xử kết luận bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự như cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố là có căn cứ.

[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Bị cáo là người dân tộc thiểu số, sống ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, bị cáo không được đi học nên nhận thức pháp luật có phần hạn chế. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[4] Về hình phạt bổ sung: Xét hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn, không có khả năng thi hành hình phạt tiền nên không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo, theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

[5] Về xử lý vật chứng:

Đối với 0,39 gam Heroine còn lại sau giám định là vật Nhà nước cấm lưu hành nên tịch thu, tiêu hủy.

Tiêu hủy 01 phong bì thư là vật dùng để niêm phong vật chứng cần tịch thu để tiêu hủy do không còn giá trị sử dụng (tình trạng niêm phong như trong biên bản giao nhận vật chứng hồ 14 giờ 30 phút, ngày 04/3/2020 tại CC THADS huyện Phong Thổ).

[7] Về án phí: Bị cáo là người dân tộc thiểu số, sinh sống tại địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn nên bị cáo được miễn nộp tiền án phí Hình sự sơ thẩm.

[8] Về quyền kháng cáo: Theo quy định tại các Điều 331, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự, bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

[9] Về trách nhiệm của người có liên quan:

Đối với người đàn ông người Trung Quốc ở bên cạnh suối là người bán Heroine cho bị cáo. Xong bị cáo không biết họ tên, địa chỉ cụ thể của người đàn ông nên không đủ căn cứ để xử lý đối với người đàn ông trên.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, Điều 38, Điều 47, Điều 50, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; các Điều 106, Điều 331, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án

1. Tuyên bố: bị cáo Vừ A S phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”

2. Xử phạt bị cáo Vừ A S 24 (hai mươi tư) tháng tù, được khấu trừ thời gian tạm giữ từ ngày 03/5/2019 đến ngày 12/5/2019. Thời hạn tù tính từ ngày 14 tháng 02 năm 2020.

3. Xử lý vật chứng:

Tịch thu tiêu hủy 0,39 gam Heroine còn lại sau giám định và 01 phong bì dùng để niêm phong vật chứng.

(Tình trạng niêm phong như trong biên bản giao nhận vật chứng hồ 14 giờ 30 phút, ngày 04/3/2020 tại CC THADS huyện Phong Thổ).

4. Án phí sơ thẩm: bị cáo được miễn nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

146
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 14/2020/HS-ST ngày 24/08/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:14/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phong Thổ - Lai Châu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về