Bản án 14/2019/HS-ST ngày 26/02/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐÔ LƯƠNG – TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 14/2019/HS-ST NGÀY 26/02/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 26 tháng 02 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 07/2019/TLST-HS ngày 22 tháng 01 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 14/2019/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 02 năm 2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Quang C - sinh ngày 14/7/1993 tại xã HS, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An. Tên gọi khác: không; Nơi cư trú: xóm H, xã HS, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ học vấn: 11/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Quang T và bà Trần Thị L; vợ, con: chưa có; tiền án: ngày 27/12/2017 bị Tòa án nhân dân huyện Đô Lương xử phạt 12 tháng tù về tội Cưỡng đoạt tài sản (chấp hành xong hình phạt chính ngày 29/8/2018); tiền sự: ngày 08/12/2016 bị chủ tịch UBND xã HS ra Quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy trong thời hạn 03 tháng kể từ ngày 08/12/2016; bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 10/12/2018. Có mặt tại phiên tòa.

Bị hại: Chị Nguyễn Thị L – sinh năm 1989

Địa chỉ: xóm HB, xã HS, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An. Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 16/11/2018, chị Nguyễn Thị L đến chơi và gửi xe mô tô BKS 37D1-620.84 tại nhà mẹ đẻ ở xóm H, xã HS, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An. Trong cốp xe, chị L có để một chiếc ví da màu nâu đựng một số giấy tờ và tiền mặt Việt Nam đồng. Đến đêm ngày 18/11/2018, Nguyễn Quang C đã dùng tay móc cốp xe mô tô của chị L (là chị gái của C) lấy ra 19.500.000 đồng tiền Việt Nam từ trong ví rồi để ví trở lại vị trí cũ. Sau khi lấy được tiền, C đã đi xuống thành phố Vinh và thị xã Cửa Lò ăn chơi, tiêu xài hết.

Ngày 19/11/2018 nghi ngờ do Cảnh thực hiện hành vi trộm cắp, chị L đã trình báo lên Công an xã HS, huyện Đô Lương.

Ngày 10/12/2018, C tự nguyện ra đầu thú và khai nhận về hành vi phạm tội của mình.

Tại bản cáo trạng số 11/CT-VKS ngày 21/01/2019, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đô Lương truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

- Bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình đúng như cáo trạng đã truy tố. Bị cáo đã bồi thường toàn bộ thiệt hại cho bị hại. Bị cáo có ông nội là người có công với cách mạng và xin giảm nhẹ hình phạt.

- Bị hại thừa nhận là đã được nhận đầy đủ tiền bồi thường thiệt hại và đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đô Lương giữ quyền công tố và kiểm sát xét xử đề nghị: giữ nguyên việc truy tố bị cáo Nguyễn Quang C phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 điều 173 Bộ luật Hình sự; đề nghị áp dụng khoản 1 điều 173; điểm b, s khoản 1, khoản 2 điều 51; Điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo mức án từ 18 tháng đến 24 tháng tù; đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của hành vi tố tụng và quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử:

- Trong quá trình điều tra: Điều tra viên được phân công điều tra đã thực hiện đúng quy định của pháp luật tố tụng về việc kiểm tra, xác minh, lập hồ sơ giải quyết nguồn tin về tội phạm; lập hồ sơ vụ án; hỏi cung bị can; giao nhận các văn bản tố tụng đúng thời hạn.

- Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử: Kiểm sát viên đã thực hiện nghiêm túc hoạt động kiểm sát điều tra; tham gia phiên tòa đúng thời gian, địa điểm; công bố bản cáo trạng; tham gia xét hỏi, luận tội, tranh luận và phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án đồng thời thực hiện việc kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Tòa án cũng như người tham gia tố tụng trong giai đoạn xét xử.

Do các hành vi tố tụng và quyết định tố tụng của Điều tra viên và Kiểm sát viên đều tuân thủ quy định của Bộ luật tố tụng hình sự nên hợp pháp và được sử dụng làm chứng cứ để Hội đồng xét xử xem xét.

[2] Về nội dung: vào đêm ngày 18/11/2018, tại nhà bà Trần Thị L thuộc xóm H, xã HS, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An, Nguyễn Quang C đã có hành vi lợi dụng sơ hở của chủ sở hữu tài sản, chiếm đoạt của chị Nguyễn Thị L số tiền 19.500.000 đồng Việt Nam. Hành vi trên của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 điều 173 Bộ luật Hình sự nên Viện kiểm sát huyện Đô Lương truy tố đối với bị cáo là có cơ sở và được Hội đồng xét xử chấp nhận.

Xét hành vi của bị cáo gây nguy hiểm cho xã hội ở mức độ không lớn, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an trên địa bàn huyện Đô Lương. Mục đích phạm tội của bị cáo là nhằm thỏa mãn nhu cầu chi tiêu cá nhân. Ngày 27/12/2017, Nguyễn Quang C bị Tòa án nhân dân huyện Đô Lương xử phạt 12 tháng tù về tội Cưỡng đoạt tài sản, thi hành án xong chưa được xóa án tích thì đến ngày 19/11/2018 lại tiếp tục phạm tội nên thuộc trường hợp tái phạm (là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự). Bị cáo có 01 tiền sự về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy (ngày 08/12/2016 bị chủ tịch UBND xã HS ra Quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy trong thời hạn 03 tháng kể từ ngày 08/12/2016). Điều này chứng tỏ bị cáo là kẻ coi thường pháp luật nên cần xử lý nghiêm khắc, lên một mức án tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội và cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm răn đe, phòng ngừa tái phạm. Cần thiết tiếp tục tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

Tuy nhiên cần xem xét, bị cáo có các tình tiết giảm nhẹ như: quá trình điều tra và tại phiên toà khai báo thành khẩn (điểm s, khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự); đã bồi thường toàn bộ thiệt hại cho bị hại (điểm b khoản 1 điều 51 Bộ luật Hình sự). Sau khi phạm tội, bị cáo đầu thú; bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo (là các tình tiết giảm nhẹ quy định khoản 2 điều 51 Bộ luật hình sự). Do vậy, Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần khi quyết định hình phạt để thể hiện sự khoan hồng của pháp luật, tạo điều kiện cho bị cáo sớm quay về làm người có ích cho xã hội.

Về hình phạt bổ sung: xét bị cáo không có tài sản và thu nhập ổn định nên không cần áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về dân sự: bị hại đã được bồi thường 19.500.000 đồng, không có yêu cầu gì về bồi thường dân sự nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Về án phí: bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo luật định. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Khoản 2 Điều 135 Bộ luật tố tụng hình sự; Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Quang C phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Về hình phạt:

Xử phạt bị cáo Nguyễn Quang C 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam là ngày 10/12/2018.

- Về án phí: Bị cáo Nguyễn Quang C phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo lên Toà án nhân dân tỉnh Nghệ An trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

475
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 14/2019/HS-ST ngày 26/02/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:14/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đô Lương - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/02/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về