Bản án 14/2019/HSST ngày 23/01/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TIÊN DU, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 14/2019/HSST NGÀY 23/01/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Hôm nay, ngày 23 tháng 01 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tiên Du; tiến hành xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 10/2018/HSST ngày 19 tháng 12 năm 2018; Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 14/QĐXX, ngày 11 tháng 01 năm 2019; đối với bị cáo:

Lê Đình S, sinh năm 1995; ĐKHKTT: Thôn N, xã NP, huyện LN, tỉnh Bắc Giang; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 05/12; con ông Lê Đình T, sinh năm 1956 (đã chết) và bà Hà Thị D, sinh năm 1955; gia đình có 06 anh em, bị cáo là con út; Tiền sự: Không; Tiền án: 02:

- Bản án số 84/2015/HSST ngày 02/02/2015 Tòa án nhân dân thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh xử phạt: 15 tháng tù về tội: “Trộm cắp tài sản”; Chấp hành xong hình phạt ngày 01/02/2016; Chưa thi hành xong khoản tiền phải truy thu;

- Bản án số 144/2016/HSST ngày 08/7/2016 Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa xử phạt: 18 tháng tù về tội: “Trộm cắp tài sản”; Chấp hành xong hình phạt ngày 04/10/2017.

Bị cáo bị tạm giam từ ngày 08/11/2018 tại Nhà giam giữ Công an huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh; Có mặt tại phiên tòa.

Bị hại :

Anh Mai Đông H, sinh năm 1984, vắng mặt; Địa chỉ: Bãi D, thôn ĐC, xã ND, huyện T, tỉnh Bắc Ninh; 

Người bào chữa: Ông Hoàng Nhật H, sinh năm 1983, có mặt;

Trợ giúp viên pháp lý,Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Bắc Ninh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ, diễn biến tại phiên tòa trong quá trình xét hỏi, tranh luận, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 0 giờ 30 phút ngày 07/11/2018, Lê Đình S đi bộ tại khu vực Bãi D, thôn ĐC, xã ND, huyện T để tìm chỗ ngủ. S phát hiện cửa sổ tầng 2 ngôi nhà anh H đang mở nên đã nảy sinh ý định đột nhập vào bên trong để trộm cắp tài sản. Quan sát thấy cách nhà anh H một nhà có trồng một cây sấu trước cửa. S đã trèo lên cây sấu, men theo ban công của những ngôi nhà liền kề, sang ban công nhà anh H. Tiếp đó, S trèo qua cửa sổ vào phòng ngủ nhà anh H và lấy được 02 chiếc điện thoại di động và 01 ví nữ bằng vải để trên chiếc ghế nhựa kê sát tường gần cửa sổ. Sang đã men theo lối cũ mang tài sản ra ngoài. Buổi sáng, khi S mang điện thoại đi bán thì bị Công an xã ND triệu tập đến trụ sở làm việc. Tại đây, S đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Biên bản định giá tài sản ngày 28/11/2018 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự huyện Tiên Du đã xác định: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy J7 10FN màu vàng giá trị còn lại là 2.700.000đ; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy J7 Prime màu vàng giá trị còn lại là 3.600.000đ. Tổng giá trị tài sản là 6.300.000đồng.

Về trách nhiệm dân sự: Anh Mai Đông H là bị hại đã nhận lại 02 chiếc điện thoại trên, chiếc ví nữ bên trong có các giấy tờ: Giấy Chứng minh nhân dân, giấy phép lái xe, thẻ bảo hiểm y tế mang tên chị Nguyễn Thị Lệ Quyên (vợ của anh Hải) và 02 thẻ bảo hiểm y tế của các con.

Cáo trạng số: 02/CT - VKS ngày 18/12/2018 của VKSND huyện Tiên Du đã truy tố bị cáo Lê Đình Sang về tội: “Trộm cắp tài sản” theo điểm g khoản 2 điều 173 – Bộ luật hình sự;

Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận là đối tượng ham mê trò chơi điện tử, không có việc làm. Ngày 07/11/2018, bị cáo đã trộm cắp 02 chiếc điện thoại di động và 01 ví nữ của gia đình anh H nhưng chưa kịp đem bán thì phát hiện. Trước đó, bị cáo đã 02 lần bị Tòa án xét xử về hành vi trộm cắp tài sản. Do vậy, cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiên Du là đúng người, đúng tội. Bị cáo ăn năn, hối cải về hành vi phạm tội của mình, xin được hưởng mức án nhẹ nhất để yên tâm cải tạo, rèn luyện bản thân trở thành công dân tốt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiên Du thực hành quyền công tố tại phiên tòa phát biểu luận tội; sau khi đưa ra các chứng cứ, phân tích tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử giữ nguyên tội danh của bị cáo như Cáo trạng đã truy tố và đề nghị:

Áp dụng điểm g khoản 2 điều 173, điểm s khoản 1, 2 Điều 51, Điều 38 – Bộ luật hình sự ; Xử phạt: Lê Đình S: từ 28 đến 32 tháng tù, Thời hạn tù tính từ ngày tạm giam 08/11/2018; Không đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung.

Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại đã nhận lại tài sản, không yêu cầu gì, nên không đặt ra xem xét.

Người bào chữa: Đề nghị HĐXX xem xét đến điều kiện, hoàn cảnh sống của bị cáo do: Thiếu sự quan tâm, giáo dục từ gia đình; Trình độ học vấn thấp; Sau khi phạm tội có thái độ khai báo thành khẩn, biết tỏ ra ăn năn, hối cải về hành vi của mình. Hơn nữa, bị hại là anh Hải có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; nên đề nghị cho bị cáo được hưởng mức án nhẹ nhất, sớm trở về với gia đình để phấn đấu thành công dân có ích cho xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận; trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, đã có đủ căn cứ xác định:

Vào khoảng 01h 00 ngày 07/11/2018, bị cáo Lê Đình S đã lợi dụng sơ hở của gia đình anh H để lén lút chiếm đoạt 02 chiếc điện thoại di động và chiếc ví nữ bên trong có giấy tờ tùy thân. Tổng giá trị tài sản của hai chiếc điện thoại di động là 6.300.000đồng.

Bị cáo là người có nhân thân xấu, đã hai lần bị Tòa án xét xử cùng về hành vi“Trộm cắp tài sản”;  cụ thể như sau:

- Bản án số 84/2015/HSST ngày 02/02/2015 Tòa án nhân dân thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh xử phạt: 15 tháng tù; Chấp hành xong hình phạt ngày 01/02/2016; Chưa thi hành xong khoản tiền phải truy thu;

- Bản án số 144/2016/HSST ngày 08/7/2016 Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa xử phạt: 18 tháng tù; Chấp hành xong hình phạt ngày 04/10/2017. Bản án này đã xác định bị cáo phạm tội trong trường hợp “Tái phạm”

Ngày 07/11/2018, bị cáo tiếp tục thực hiện hành vi “Trộm cắp tài sản” khi mới chấp hành xong hình phạt. Như vậy lần phạm tội này của bị cáo phạm tội thuộc trường hợp “Tái phạm nguy hiểm” như Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiên Du truy tố bị cáo theo điểm g khoản 2 Điều 173 – Bộ luật hình sự với tình tiết định khung tăng nặng: “Tái phạm nguy hiểm” là hoàn toàn có căn cứ.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm quyền sở hữu về tài sản được pháp luật bảo vệ, gây mất ổn định tình hình an ninh trật tự tại địa phương. Do vậy, cần phải xử phạt nghiêm minh mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung cho toàn xã hội.

Ngoài hai lần bị Tòa án xét xử: Bị cáo còn 2 lần bị xử lý vi phạm hành chính. Ngày 25/11/2011, bị Công an phường Vũ Ninh, thành phố Bắc Ninh phạt hành chính (cảnh cáo) về hành vi trộm cắp tài sản;

Ngày 12/12/2011 bị Chủ tịch UBND thành phố Bắc Ninh áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng thời hạn 24 tháng về hành vi trộm cắp tài sản; đã chấp hành xong ngày 12/12/2013.

Đến ngày phạm tội, không còn bị coi là tiền sự; Nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học cảnh tỉnh bản thân mà vẫn tiếp tục vi phạm pháp luật, thực hiện hành vi trộm cắp tài sản để bán lấy tiền chơi trò chơi điện tử.

HĐXX xét cần cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo thành người có ích cho gia đình, xã hội. Bị cáo là người không có nghề nghiệp ổn định, nên không áp dụng hình phạt bổ sung.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Sau khi phạm tội cũng như tại phiên tòa hôm nay , bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, tỏ ra ăn năn, hối cải về hành vi phạm tội của mình. Bị hại là anh Mai Đông H có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Như vậy, bị cáo được hưởng 2 tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 – Bộ luật hình sự;

Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại đã nhận lại tài sản và không yêu cầu gì, nên không xem xét giải quyết.

Bị cáo phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên

Tuyên bố:

QUYẾT ĐỊNH

Bị cáo Lê Đình S phạm tội: “Trộm cắp tài sản”;

Áp dụng điểm g Khoản 2 điều 173; điểm s khoản 1,2 Điều 51; Điều 38, - Bộ luật hình sự; Khoản 2,3 Điều 329; Điều 331; Điều 333 - Bộ luật Tố tụng hình sự; Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 Ngày 30/12/2016 về án phí, lệ phí Tòa án.

- Xử phạt: Lê Đình S: 24 (Hai mươi tư) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giam 08/11/2018;

Quyết định tạm giam bị cáo trong thời hạn 45 ngày, kể từ ngày tuyên án để đảm bảo Thi hành án.

Bị cáo S phải chịu 200.000đ án phí HSST.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận tống đạt án vắng mặt hoặc ngày bản án được niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

267
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 14/2019/HSST ngày 23/01/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:14/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tiên Du - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về