Bản án 14/2019/HS-ST ngày 21/02/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LẠNG SƠN, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 14/2019/HS-ST NGÀY 21/02/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 21 tháng 02 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 16/2019/HSST ngày 23 tháng 01 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 16/2019/HSST- QĐ ngày 30 tháng 01 năm 2019 đối với bị cáo:

Phùng Văn C (tên gọi khác: Phùng Văn C1), sinh ngày 09/6/1964 tại Lạng Sơn.

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn L, xã H, huyện V, tỉnh Lạng Sơn; chỗ ở: Khối T, phường C, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 01/12; dân tộc: Nùng; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phùng Văn T (đã chết) và bà Triệu Thị Q (đã chết); vợ: Hoàng Thị L, con: 02 con (con lớn sinh năm 1989, con nhỏ sinh năm 1992); tiền án, tiền sự: Không có. Nhân thân: Ngày 24/7/1998 bị Toà án nhân dân tỉnh L xử phạt 08 năm tù (05 năm về tội Mua bán trái phép chất ma tuý; 03 năm về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý), đã được xoá án tích. Bị cáo bị tạm giam từ ngày 05/12/2018 cho đến nay, có mặt.

Người bào chữa: Bà Ngô Thị Thanh H, Trợ giúp viên pháp lý Nhà nước tỉnh Lạng Sơn. Có mặt

Người chứng kiến: Bà Phạm Thị L. Vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 11 giờ ngày 05/12/2018, tổ công tác Công an thành phố Lạng Sơn đang làm nhiệm vụ tại đường H (đầu cầu K, phường C, thành phố L) phát hiện bắt quả tang Phùng Văn C (tên gọi khác: Phùng Văn C1) có hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý, thu giữ trong túi áo khoác 01 gói giấy nhỏ bên trong có chứa chất bột màu trắng, kiểm tra cốp xe mô tô biển kiểm soát 12K3-54xx do Phùng Văn C (tên gọi khác: Phùng Văn C1) điều khiển phát hiện 01 ví giả da màu nâu, bên trong ví có 01 gói giấy nhỏ chứa chất bột màu trắng, Phùng Văn C (tên gọi khác: Phùng Văn C1) khai nhận đó là ma tuý Heroin.

Tại Bản kết luận giám định số 16/KL-PC09 ngày 07/12/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn kết luận: Chất bột màu trắng trong 02 gói giấy thu của Phùng Văn C (tên gọi khác: Phùng Văn C1) đều là chất ma túy Heroine có khối lượng 0,104 gam.

Đối với người đàn ông đã bán ma túy cho Phùng Văn C (tên gọi khác: Phùng Văn C1) do bị cáo không biết danh tính, địa chỉ nên Cơ quan cảnh sát điều tra không có cơ sở để xác minh, xử lý trong vụ án.

Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu Brand SUMOTO, màu đen bạc, BKS 12K3 – 54xx kết quả điều tra xác định là xe của chị Phùng Thị X là cháu của Phùng Văn C (tên gọi khác: Phùng Văn C1), sinh năm 1989, trú tại: Khối 10, thị trấn C, huyện C, tỉnh Lạng Sơn cho Phùng Văn C mượn để đi lại. Cơ quan điều tra đã trả lại cho chị Phùng Thị X.

Tại bản Cáo trạng số 18/CT-VKS ngày 21/01/2019 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn đã truy tố bị cáo Phùng Văn C (tên gọi khác: Phùng Văn C1) về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c, khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự 2015.

Tại phiên tòa: Bị cáo Phùng Văn C (tên gọi khác: Phùng Văn C1) khai:

Do nghiện ma tuý từ năm 1997, nên thường mua ma tuý về sử dụng. Ngày 04/11/2018, bị cáo đi đến quán nước trên đường N, phường V, thành phố L mua một gói ma tuý Heroin của một người đàn ông không biết tên tuổi, địa chỉ với giá 100.000 đồng rồi cất giấu vào ví giả da để trong cốp xe mô tô biển kiểm soát 12K3 – 54xx với mục đích để sử dụng, nhưng bị cáo chưa sử dụng. Khoảng 10 giờ 30 phút ngày ngày 05/12/2018 bị cáo điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 12K3 – 54xx đi ra quán nước đầu đường N, phường V, thành phố Llại gặp người đàn ông hôm trước đã bán ma tuý cho bị cáo, sẵn có tiền trong túi, bị cáo mua thêm một gói ma tuý Heroin của người đàn ông đó với giá 100.000đồng. Sau khi mua được ma tuý, bị cáo cất giấu gói ma tuý vào trong túi áo khoác đang mặc trên người rồi điều khiển xe mô tô đi qua cầu K để về nhà sử dụng thì bị Công an kiểm tra, phát hiện, bắt quả tang.

Tại cơ quan công an bị cáo bị thu giữ 01 (một) giấy phép lái xe hạng A1 số 200135004762 mang tên Phùng Văn C (tên gọi khác: Phùng Văn C1) 01 (một) chứng minh nhân số 080844xx mang tên Phùng Văn C (Phùng Văn C) do không liên quan đến việc phạm tội nên đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo được nhận lại.

Tại cơ quan điều tra người chứng kiến bà Phạm Thị L khai: Khoảng 11 giờ ngày 05/12/2018, tại khu vực đường H, phường C, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn đã được chứng kiến việc Phùng Văn C (tên gọi khác: Phùng Văn C1) có hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý Heroin và bị lực lượng công an bắt giữ.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Phùng Văn C (tên gọi khác: Phùng Văn C1) phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy; áp dụng khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo 15 tháng đến 18 tháng tù; không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo và bị cáo còn phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Xử lý vật chứng: Đề nghị tịch thu, tiêu hủy 01 (một) gói niêm phong sau giám định đựng chất ma túy Heroin; trả lại cho bị cáo 01 (một) giấy phép lái xe hạng A1 số 200135004762 mang tên Phùng Văn C (tên gọi khác: Phùng Văn C1), 01 (một) chứng minh nhân số 08084463 mang tên Phùng Văn C (Phùng Văn C1).

Bị cáo không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát.

Người bào chữa cho bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo dưới mức hình phạt mà đại diện Viện Kiểm sát đề nghị vì bị cáo có trình độ văn hóa thấp, là người dân tộc thiếu số, tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Tại phiên tòa bị cáo xuất trình thêm đơn xin miễn tiền án phí nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét miến tiền án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo thuộc trường hợp dân tộc thiểu số cư trú ở vùng có kinh tế-xã hội đặc biệt khó khăn theo điểm d khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phi, lệ phí Tòa án.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo biết hành vi của mình là vi phạm pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ cho bị cáo để bị cáo sớm được trở về với xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ được, Kết luận giám định của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn và những chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Do đó, có đủ căn cứ xác định bị cáo Phùng Văn C (Phùng Văn C1) phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

[3] Xét tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội thấy rằng hành vi mà bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm nghiêm trọng chế độ độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước, gây ảnh hưởng đến tình hình trật tự trị an trên địa bàn thành phố Lạng Sơn. Bị cáo cũng biết được rằng chất ma túy ma túy là loại chất gây nghiện nặng, hủy hoại sức khoẻ của con người và cũng là nguyên nhân dẫn đến các tệ nạn xã hội khác nhưng chỉ vì thỏa mãn cơn nghiện của bản thân, bị cáo đã bất chấp pháp luật, cố ý thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Do vậy, Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn đã truy tố bị cáo Phùng Văn C (tên gọi khác: Phùng Văn C1) về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Với hành vi của mình, bị cáo Phùng Văn C (tên gọi khác: Phùng Văn C1) phải chịu một hình phạt nghiêm khắc, tương xứng với hành vi mà bị cáo đã gây ra để lấy đó làm bài học cho bản thân và cũng là để tuyên truyền, giáo dục chung trong cộng đồng.

[4] Về nhân thân: Bản án số 120/HS-ST ngày 24/7/1998 của Tòa án nhân dân tỉnh Lạng Sơn đã xử phạt bị cáo 08 năm tù (05 năm về tội Mua bán trái phép chất ma tuý; 03 năm về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý), nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học cho bản thân để tu dưỡng, rèn luyện mình nay lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội. Điều đó thể hiện bị cáo là người coi thường pháp luật.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[6] Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền do bị vì bị cáo là đối tượng nghiện ma tuý, không có tài sản riêng, không có thu nhập.

[7] Tại phiên tòa người bào chữa đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo dưới mức hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị và xin miến án phí hình sự sơ thẩm với các lý do bị cáo thuộc trường hợp dân tộc thiểu số cư trú ở vùng có kinh tế-xã hội đặc biệt khó khăn theo điểm d khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phi, lệ phí Tòa án. Hội đồng xét xử thấy bị cáo đa đã từng bị kết án 08 năm tù cũng vì các tội liên quan đến ma tuý nhưng không rút ra bài học cho bản thân mà lại tiếp tục phạm tội. Tại phiên tòa bị cáo khai rõ đã ra thành phố Lạng Sơn làm thuê gần một năm, không thường xuyên cư trú tại địa bàn khó khăn về kinh tế xã hội. Vì vậy các đề nghị của người bào chữa đưa ra là không có căn cứ nên Hội đồng xét xử không chấp nhận.

[8] Về vật chứng: Đối với những vật chứng mà Cơ quan Cảnh sát điều tra đã trả cho chị Phùng Thị X trước khi vụ án được đưa ra xét xử, Hội đồng xét xử không đề cập đến. Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự 2015; điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự 2015: Tịch thu tiêu hủy: 01 (Một) gói niêm phong sau giám định đựng chất ma túy Heroin, trả lại cho bị cáo Phùng Văn C (Phùng Văn C1): 01 (một) giấy phép lái xe hàng A1 số 2001350047xx mang tên Phùng Văn C1 (Phùng Văn C1), 01 (một) chứng minh nhân số 080844xx mang tên Phùng Văn C (Phùng Văn C1).

[9] Về án phí: Bị cáo bị kết án nên theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

[10] Trong vụ án còn có đối tượng bán ma tuý cho bị cáo là người đàn ông do không xác định được địa chỉ, danh tính, cơ quan điều tra xác minh không làm rõ được, nên Hội đồng xét xử không xem xét trong vụ án này.

[11] Bị cáo có quyền kháng cáo quy định của pháp luật

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Phùng Văn C (tên gọi khác: Phùng Văn C1) phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

2. Về hình phạt:

2.1 Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự;

2.2 Xử phạt bị cáo Phùng Văn C 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam 05/12/2018.

3. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 , điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

3.1. Tịch thu tiêu hủy: 01 (Một) gói niêm phong sau giám định đựng chất ma túy Heroin.

3.2. Trả lại cho bị cáo Phùng Văn C (tên gọi khác: Phùng Văn C1): 01 (một) giấy phép lái xe hàng A1 số 2001350047xx mang tên Phùng Văn C1, 01 (một) chứng minh nhân số 080844xx mang tên Phùng Văn C (Phùng Văn C1).

(Các vật chứng trên được thể hiện tại biên bản giao nhận vật chứng ngày 14/02/2019 giữa Cơ quan Công an thành phố Lạng Sơn và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Lạng Sơn).

4. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Bị cáo Phùng Văn C (tên gọi khác: Phùng Văn C1) phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm để sung Ngân sách Nhà nước.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

189
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 14/2019/HS-ST ngày 21/02/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:14/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Lạng Sơn - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/02/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về