Bản án 14/2019/HSST ngày 13/06/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CƯ JÚT – TỈNH ĐẮK NÔNG

BẢN ÁN 14/2019/HSST NGÀY 13/06/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 13 tháng 6 năm 2019 tại phòng xử án Tòa án nhân dân huyện Cư Jút xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 16/2019/TLST-HS ngày15 tháng 5 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 14/2019/QĐXXST-HS ngày 31 tháng 5 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Tạ Văn T; sinh năm: 1978 tại: Hải Hậu, Nam Định; nơi cư trú: thôn T, xã Đ, huyện C, tỉnh Đắk Nông; trình độ học vấn: 05/12; nghề nghiệp: làm nông; con ông Tạ Văn T (đã chết) và con bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1951; bị cáo có vợ là Phạm Thị H, sinh năm 1979 và 02 (hai), lớn nhất sinh năm 2002, nhỏ nhất sinh năm 2017; tiền án: không; tiền sự: có 01 (một) tiền sự, tại quyết định số 573/QĐ-UBND ngày 06/5/2010 của UBND tỉnh Đắk Nông về việc đưa người vào chữa trị, cai nghiện tại trường GDDT& GQVL số 5, thuộc lực lượng Thanh niên xung phong Tp.Hồ Chí Minh với thời gian 24 tháng, đến ngày 28/6/2010 thì bỏ trốn khỏi cơ sở cai nghiện, chưa chấp hành xong; nhân thân: Ngày 11/6/2002 bị Tòa án nhân dân huyện Krông Nô, tỉnh Đắk Nông tuyên phạt 01 năm tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 02 năm về tội “Cố ý gây thương tích” quy định tại Điều 109 BLHS năm 1985, đã chấp hành xong. Ngày 19/9/2012 bị Tòa án nhân dân huyện Cư Jút, tỉnh Đăk Nông xử phạt 01 năm tù về tội Trộm cắp tài sản, quy định tại Điều 138 BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009), hiện đã chấp hành xong. (có mặt)

Người làm chứng: Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1968 (địa chỉ: thôn 11, xã T, huyện C, tỉnh Đắk Nông (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 09 giờ 30 phút ngày 04/3/2019, bị cáo Tạ Văn T đi xe buýt từ nhà ở thôn T, xã Đ, huyện C, tỉnh Đắk Nông lên khu vực cầu 14 thuộc xã H, Tp.B, tỉnh Đắk Lắk để tìm mua ma túy (Heroin) về sử dụng. Khi đến nơi thì bị cáo T gặp một người đàn ông (không rõ nhân thân, lai lịch), biết được T có nhu cầu mua ma túy thì người này nói có bán ma túy; T đưa cho người đàn ông này 400.000đ (Bốn trăm nghìn đồng), người này bỏ đi khoảng 10 phút rồi quay lại đưa cho T (một) gói ma túy được gói bằng mảnh giấy màu hồng. Sau đó, T cất gói ma túy vừa mua được vào trong túi quần phía trước bên phải rồi đi bộ về hướng huyện C, tỉnh Đắk Nông. Đến khoảng 10 giờ 30 phút cùng ngày, khi bị cáo Tạ Văn T đi đến trước số nhà 56 Quốc lộ 14 thuộc thôn 11, xã T, huyện C, tỉnh Đắk Nông thì bị Cơ quan CSĐT Công an huyện Cư Jút bắt quả tang.

Tại bản kết luận giám định số 14/KLMT-PC09 ngày 11/3/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đăk Nông kết luận: 01 (một) gói nhỏ chứa chất bột màu trắng thu giữ trên người bị cáo Tạ Văn T có khối lượng là 0,1783 gam, có Heroine, hoàn lại sau giám định là 0,1037 gam. Heroine là chất ma túy nằm trong Danh mục IA, STT 09, Nghị định 73 ngày 15/5/2018 của Chính phủ.

Tại bản cáo trạng số: 17/CTr-VKS ngày 14 /5/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Cư Jút đã truy tố bị cáo Tạ Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Kết quả xét hỏi tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như cáo trạng đã nêu, bị cáo thừa nhận bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Cư Jút truy tố bị cáo là đúng, không oan.

Tại phiên tòa, bị cáo không bào chữa gì mà chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố hành vi của bị cáo Tạ Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”

Sau khi phân tích các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) xử phạt bị cáo Tạ Văn T từ 02(hai) năm đến 02(hai) năm 06 (sáu) tháng tù.

Về vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu, tiêu hủy 0,1037 gam Heroin còn lại sau khi giám định; 01 (một) bơm kim tiêm loại 3ml/cc.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử thấy như sau:

[1]. Về hành vi của Điều tra viên, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Cư Jút, Viện kiểm sát nhân dân huyện Cư Jút, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Đối với hành vi của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy rằng: vào khoảng 10 giờ 30 phút ngày 04/3/2019, tại khu vực trước số nhà 56 Quốc lộ 14 thuộc địa phận thôn 11, xã T, huyện C, tỉnh Đắk Nông bị cáo Tạ Văn T đã có hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy túy (Heroine) với khối lượng 0,1037 gam Heroin còn lại sau khi giám định nhằm mục đích sử dụng; bị báo bị Cơ quan CSĐT Công an huyện Cư Jút, tỉnh Đăk Nông bắt quả tang cùng 01 (một) bơm kim tiêm loại 3ml/cc.

Tại bản kết luận giám định số 14/KLMT-PC09 ngày 11/3/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đăk Nông kết luận: 01 (một) gói nhỏ chứa chất bột màu trắng thu giữ trên người bị cáoTạ Văn T có khối lượng là 0,1783 gam, có Heroine, hoàn lại sau giám định là 0,1037 gam. Heroine là chất ma túy. Do vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện Cư Jút truy tố bị cáo Tạ Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” là có căn cứ, không oan.

Điều 249 Bộ luật Hình sự (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

c. Heroine có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

Xét tính chất vụ án do bị cáo gây ra là nghiêm trọng, nguy hiểm cho xã hội, hành vi của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước đối với chất ma tuý (Heroine), gây mất trật tự trị an tại địa phương, gây dư luận bất bình trong nhân dân. Trên địa bàn tỉnh Đắk Nông nói chung và huyện C nói riêng, tàng trữ trái phép chất ma túy và mua bán trái phép chất ma túy xảy ra ngày càng nhiều, làm hại thể chất đạo đức con người, trong khi Đảng và Nhà nước đang ra sức cùng nhân dân bài trừ, đấu tranh phòng chống ma túy. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự và nhận thức được những tác hại của việc tàng trữ, mua bán, sử dụng trái phép chất ma tuý nhưng vẫn cố tình thực hiện. Mặt khác; bị cáo có nhân thân xấu, đã có 01 tiền sự tại quyết định số 573/QĐ-UBND ngày 06/5/2010 của UBND tỉnh Đắk Nông Vv việc đưa người vào chữa trị, cai nghiện tại trường GDDT& GQVL số 5, thuộc lực lượng Thanh niên xung phong Tp.Hồ Chí Minh thời gian 24 tháng. Đến ngày 28/6/2010 thì bỏ trốn khỏi cơ sở cai nghiện, chưa chấp hành xong. Tại Bản án số 21/2002/HSST ngày 11/6/2002 Tòa án nhân dân huyện Krông Nô, tỉnh Đắk Nông xứ phạt bị cáo 01 năm tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 02 năm về tội “Cố ý gây thương tích” và Bản án số 28a/2012/HSST ngày 19/9/2012 của Tòa án nhân dân huyện Cư Jút xử phạt bị cáo 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, bị cáo đã chấp hành xong 02 bản án trên, nhưng không lấy đó làm bài học mà sửa chữa thành công dân tốt cho xã hội mà lại tiếp tục thực hiện hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy. Vì vậy, cần cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian nhất định thì mới đủ tác dụng giáo dục, cải tạo đối với các bị cáo và răn đe phòng ngừa chung trong toàn xã hội.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, thể hiện thái độ ăn năn hối cải. Do đó, bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Về hình phạt bổ sung: Theo khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định thì “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng,cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”. Tuy nhiên, theo tài liệu, chứng cứ và lời khai của các bị cáo tại phiên tòa cho thấy: bị cáo vẫn đang sống phụ thuộc vào gia đình, không có thu nhập ổn định, điều kiện kinh tế gia đình của bị cáo khó khăn, con còn nhỏ. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

Đối với người đàn ông (không rõ nhân thân, lai lịch mà T mua ma túy ở xã H thuộc Thành phố B, tỉnh Đắk Lắk, Cơ quan CSĐT Công an huyện Cư Jút đã tiến hành điều tra nhưng chưa xác định được; khi nào xác định được, đủ căn cứ sẽ xử lý sau.

Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 0,1037 gam Heroin còn lại sau khi giám định và 01 (một) bơm kim tiêm loại 3ml/cc (đặc điểm vật chứng như trong biên bản giao nhận vật chứng ngày 27/5/2019 giữa cơ quan Công an huyện Cư Jút và Chi cục thi hành án dân sự huyện C).

Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyến bố bị cáo Tạ Văn T phạm tội“Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) xử phạt bị cáo Tạ Văn T 02 (hai) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam (ngày 04/3/2019).

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 46, Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); các điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 tuyên: Tịch thu tiêu hủy 0,1037 gam Heroin còn lại sau khi giám định và 01 (một) bơm kim tiêm loại 3ml/cc (đặc điểm các vật chứng như trong biên bản giao nhận vật chứng ngày 27/5/2019 giữa cơ quan Công an huyện Cư Jút và Chi cục thi hành án dân sự huyện C).

Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Toà án: Buộc bị cáo Tạ Văn T phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo Bản án sơ thẩm trong thời hạn là 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

243
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 14/2019/HSST ngày 13/06/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:14/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cư Jút - Đăk Nông
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về