Bản án 14/2019/HS-ST ngày 03/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẠM TẤU, TỈNH YÊN BÁI

BẢN ÁN 14/2019/HS-ST NGÀY 03/10/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 03 tháng 10 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Trạm Tấu, tỉnh Yên Bái; trụ sở đóng tại tổ dân phố số 2, thị trấn Trạm Tấu, huyện Trạm Tấu, tỉnh Yên Bái. Xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 18/2019/TLST-HS ngày 20 tháng 8 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 14/2019/QĐXXST-HS ngày 19 tháng 9 năm 2019, đối với bị cáo:

Sùng A N, sinh năm 1979 tại xã X, huyện T, tỉnh Yên Bái; nơi cư trú thôn T, xã X, huyện T, tỉnh Yên Bái; nghề nghiệp trồng trọt; trình độ học vấn không biết chữ; dân tộc Mông; giới tính Nam; tôn giáo không; quốc tịch Việt Nam; con ông Sùng A T (đã chết) và con bà Giàng Thị C; có vợ là Thào Thị M và 06 con; tiền án, tiền sự không; nhân thân: Từ ngày 01 tháng 10 năm 2009 đến ngày 29 tháng 12 năm 2009 cai nghiện cộng đồng tại xã B, huyện Trạm Tấu; từ ngày 28 tháng 6 năm 2010 đến ngày 27 tháng 9 năm 2010 cai nghiện cộng đồng tại xã B, huyện Trạm Tấu; bị tạm giữ ngày 15-6-2019; “Có mặt”.

- Người bào chữa cho bị cáo: Ông Đinh Gia Huê - Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Yên Bái; “Có mặt”.

- Người chứng kiến:

Anh Sùng A T, sinh năm 1983; nơi cư trú thôn T, xã X, huyện T, tỉnh Yên Bái; “Vắng mặt”.

Anh Giàng A P, sinh năm 1979; nơi cư trú thôn T, xã X, huyện T, tỉnh Yên Bái; “Vắng mặt”.

- Người phiên dịch tiếng Mông: Ông Mùa A Làng - Cán bộ Chi cục Thi hành án dân sự huyện Trạm Tấu, tỉnh Yên Bái; “Có mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào hồi 23 giờ, ngày 14-6-2019 tại nhà riêng Sùng A N ở thôn T, xã X, huyện T, tỉnh Yên Bái; Công an huyện Trạm Tấu bắt quả tang Sùng A N có hành vi chuẩn bị hút thuốc phiện, thu giữ tại giường ngủ 01 gói nilon màu trắng, bên trong có chứa chất nhựa dẻo màu nâu đen. Tiến hành khám xét nơi ở của Sùng A N, cơ quan Công an thu giữ tại vị trí mặt đất, sát vách tường phía sau nhà, 01 gói nilon màu trắng, bên trong có chứa chất nhựa dẻo màu nâu đen. Sùng A N khai nhận 02 gói chất nhựa dẻo màu nâu đen thu giữ của N là thuốc phiện, N mua của một người phụ nữ dân tộc Mông với giá 200.000 đồng, thời điểm mua khoảng tháng 12 năm 2018; mục đích bị cáo mua thuốc phiện về để sử dụng, do bị cáo nghiện thuốc phiện.

Tại bản kết luận giám định số: 139/GĐMT ngày 23-6-2019 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Yên Bái đã kết luận:

Chất nhựa dẻo màu nâu đen thu giữ khi bắt quả tang Sùng A N có khối lượng là 0,6 (không phảy sáu) gam là ma túy; là thuốc phiện.

Chất nhựa dẻo màu nâu đen thu giữ khi khám xét nơi ở Sùng A N có khối lượng là 3 (ba) gam là ma túy; là thuốc phiện.

Bản cáo trạng số: 15/CT-VKS-TT ngày 19-8-2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Trạm Tấu, truy tố Sùng A N về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm b khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa Sùng A N khai nhận toàn bộ hành vi tàng trữ thuốc phiện bị cáo đã thực hiện.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Trạm Tấu giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo; đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố: Bị cáo Sùng A N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Sùng A N từ 01 (một) năm 06 (sáu) tháng đến 02 (hai) năm tù.

- Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

- Vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 1, khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự:

Tịch thu và tiêu hủy: 1,5 (một phảy năm) gam thuốc phiện; 02 (hai) vỏ phong bì, đã mở niêm phong; 01 (một) bộ dụng cụ tự tạo dùng để hút thuốc phiện.

Án phí: Buộc bị cáo N phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

- Bị cáo không có ý kiến tranh luận gì.

- Người bào chữa trình bày lời bào chữa: Bị cáo là người dân tộc thiểu số, sống ở vùng đặc biệt khó khăn, gia đình đông con, không biết chữ, nhận thức pháp luật còn hạn chế; phạm tội lần đầu; sau khi phạm tội đã thành khẩn khai báo; mục đích tàng trữ để sử dụng cho cá nhân bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Sùng A N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo N từ 01 (một) năm 06 (sáu) tháng đến 02 (hai) năm tù.

- Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

- Vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự:

Tịch thu và tiêu hủy: 1,5 (một phảy năm) gam thuốc phiện; 02 (hai) vỏ phong bì, đã mở niêm phong; 01 (một) bộ dụng cụ tự tạo dùng để hút thuốc phiện.

- Bị cáo nhất trí với lời bào chữa; không có ý kiến tranh luận bổ sung gì.

- Lời nói sau cùng của bị cáo: Đã biết hành vi của mình là vi phạm pháp luật hình sự; gia đình bị cáo đông con; xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt, để sớm được trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Trạm Tấu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Trạm Tấu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, Người bào chữa, bị cáo không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai của bị cáo tại phiên toà phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Vì vậy, đã có đủ cơ sở kết luận: Vào hồi 23 giờ, ngày 14-6-2019 tại nhà riêng Sùng A N ở thôn T, xã X, huyện T, tỉnh Yên Bái; Sùng A N có hành vi cất giữ bất hợp pháp tại giường ngủ và phía sau nhà, mỗi nơi một gói thuốc phiện. Tổng khối lượng thuốc phiện Sùng A N tàng trữ là 3,6 (ba phảy sáu) gam, với mục đích để sử dụng cho bản thân.

Bị cáo Sùng A N là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, bị cáo nhận thức rõ việc cất giữ bất hợp pháp thuốc phiện là vi phạm pháp luật hình sự và biết được tác hại của ma tuý (thuốc phiện) đối với sức khỏe con người và đời sống xã hội, nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện, nhằm mục đích thỏa mãn nhu cầu sử dụng ma túy của bản thân. 3,6 gam thuốc phiện mà bị cáo N tàng trữ đã đủ về lượng để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với bị cáo.

Hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý của bị cáo N thực hiện, đã xâm phạm trực tiếp đến chính sách phòng, chống và kiểm soát ma túy của Nhà nước; tiếp tay cho tệ nạn ma túy gia tăng; ảnh hưởng đến sức khỏe con người; là nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm khác và xâm hại trật tự an toàn xã hội.

[3] Từ những căn cứ trên đã có đủ cơ sở khẳng định hành vi của bị cáo Sùng A N thực hiện đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy" tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm b khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự; lời luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa là có căn cứ, nên cần được chấp nhận.

[4] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Ngay sau khi bị bắt và tại phiên tòa, bị cáo N đã thành khẩn khai báo, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; khi lượng hình Hội đồng xét xử xem xét để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[5] Nhân thân: Bị cáo Sùng A N là người nghiện chất ma túy, đã hai lần đi cai nghiện cộng đồng nhưng vẫn tái nghiện, nên xác định bị cáo là người có nhân thân xấu tại địa phương.

[6] Từ những đánh giá về tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như đã phân tích ở trên, cần áp dụng hình phạt tù, cách ly bị cáo N ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để bị cáo có thời gian cai nghiện; đồng thời giáo dục riêng bị cáo và răn đe phòng ngừa chung.

[7] Hình phạt bổ sung: Tại biên bản xác minh về tài sản cũng như tại phiên tòa xác định bị cáo N không có tài sản gì có giá trị; gia đình thuộc diện hộ nghèo của xã (có giấy xác nhận), nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[8] Vật chứng:

Đối với: 3,6 gam thuốc phiện thu giữ của Sùng A N, cơ quan điều tra đã sử dụng 2,1 gam vào việc giám định, số còn lại 1,5 gam. Đây là vật cấm tàng trữ, lưu hành, nên cần tịch thu và tiêu hủy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự và điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự.

Đối với: 02 (hai) vỏ phong bì, đã mở niêm phong; 01 (một) bộ dụng cụ tự tạo dùng để hút thuốc phiện. Đây là những vật không có giá trị sử dụng, nên cần tịch thu và tiêu hủy theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự.

[9] Án phí và các vấn đề khác:

Đối với người phụ nữ dân tộc Mông là người bị cáo N khai đã bán thuốc phiện cho bị cáo. Cơ quan điều tra không xác minh được, nên không có căn cứ để xử lý.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm; bị cáo có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tội danh: Tuyên bố bị cáo Sùng A N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Điều luật áp dụng và hình phạt: Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Sùng A N 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ bị cáo là ngày 15-6-2019.

3. Vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; các điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự:

Tịch thu tiêu hủy: 1,5 (một phảy năm) gam thuốc phiện niêm phong trong 01 phong bì thư do Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Yên Bái phát hành; 02 (hai) vỏ phong bì, đã mở niêm phong; 01 (một) bộ dụng cụ tự tạo dùng để hút thuốc phiện.

4. Án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án, buộc bị cáo N phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331 và Điều 333 của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Bị cáo N có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

186
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 14/2019/HS-ST ngày 03/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:14/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trạm Tấu - Yên Bái
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 03/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về