Bản án 14/2019/HNGĐ-ST ngày 18/07/2019 về ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN DUY TIÊN - TỈNH HÀ NAM

BẢN ÁN 14/2019/HNGĐ-ST NGÀY 18/07/2019 VỀ LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 18 tháng 7 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Duy Tiên xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 63/2019/TLST-HNGĐ ngày 27 tháng 5 năm 2019 về tranh chấp “Ly hôn, nuôi con”. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 15/2019/QĐXX-ST ngày 01 tháng 7 năm 2019, giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: chị Lương Thị Thúy M, sinh năm 1993; ĐKNKTT: Thôn T3, xã T, huyện D, tỉnh Hà Nam; Chỗ ở hiện nay: xóm 2, thôn T, xã C, huyện D, tỉnh Hà Nam. Có mặt.

* Bị đơn: anh Trần Văn T, sinh năm 1991; Địa chỉ: Thôn T 3, xã T, huyện D, tỉnh Hà Nam. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn chị Lương Thị Thúy M trình bầy: Chị và anh T đăng ký kết hôn với nhau vào ngày 15/11/2016 tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện D, tỉnh Hà Nam trên cơ sở tự nguyện, tự do tìm hiểu.

Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do anh T luôn gây xích mích và đánh đập chị tàn nhẫn, làm chị bị tổn thương nặng nề về sức khỏe, giữa hai vợ chồng hay xảy ra xô xát, cãi chửi, xúc phạm danh dự nhân phẩm của nhau. Do không chịu được việc bị anh T đánh đập cùng với vợ chồng sống không còn tình cảm nên chị đã bế con về ở nhà mẹ đẻ từ ngày 10/8/2018 đến nay. Tuy đã được hai bên gia đình khuyên can hòa giải nhưng vợ chồng vẫn sống ly thân, mâu thuẫn vẫn tồn tại, không còn quan tâm gì đến nhau. Nay chị nhận thấy cuộc hôn nhân không mang lại hạnh phúc nên chị xin được ly hôn anh T.

Quá trình giải quyết vụ án bị đơn anh Trần Văn T trình bày: anh thừa nhận về điều kiện, thủ tục đăng ký kết hôn của anh và chị M và thời điểm sống ly thân của hai vợ chồng từ tháng 8 năm 2018. Theo anh vợ chồng chung sống hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn, vợ chồng có hành vi xúc phạm danh dự nhân phẩm của nhau, nhiều lần xảy ra xô xát sau đó chị M đã bỏ về nhà mẹ đẻ ở từ tháng 8 năm 2018 không quay lại chung sống cùng anh. Từ đó vợ chồng không quan tâm gì đến nhau. Mặc dù anh đã động viên chị M về chung sống nhưng không có kết quả. Nay chị M xin ly hôn thì anh không đồng ý vì anh không muốn con nhỏ phải khổ, ảnh hưởng đến tương lai của con.

* Về con chung: Chị M, anh T xác nhận vợ chồng có một con chung tên là Trần Gia H, sinh ngày 13/11/2017. Từ khi vợ chồng sống ly thân con chung do chị M nuôi dưỡng. Khi ly hôn chị M xin nuôi con và yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con chung theo quy định của pháp luật, hiện nay chị đang làm công nhân tại công ty S, địa chỉ: Khu công nghiệp H, huyện D, Hà Nam với mức lương 4.200.000đ/tháng. Anh T cũng xin nuôi con và yêu cầu chị M phải cấp dưỡng nuôi con chung theo quy định của pháp luật, hiện nay anh đang không có việc làm.

* Về tài sản chung, công sức, công nợ: Chị M, anh T thống nhất không đề nghị Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa: các đương sự giữ nguyên quan điểm của mình. Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án và đề nghị xử ly hôn giữa chị Lương Thị Thúy M và anh Trần Văn T; về con chung: giao chị Lương Thị Thúy M trực tiếp nuôi dưỡng cháu Trần Gia H; anh T phải cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng từ 1.000.000đ đến 1.300.000đ; về tài sản chung: không đặt ra giải quyết, ngoài ra còn đề nghị về án phí.

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Sau khi nghe vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Duy Tiên phát biểu quan điểm, sau khi thảo luận và nghị án Hội đồng xét xử Tòa án nhân dân huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Lương Thị Thúy M và anh Trần Văn T kết hôn trên cơ sở tự nguyện được Uỷ ban nhân dân xã T, huyện D, tỉnh Hà Nam đăng ký kết hôn ngày 15/11/2016 là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật bảo hộ.

Sau ngày cưới vợ chồng chung sống được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn là thực tế các bên đã thừa nhận. Vợ chồng thường xảy ra cãi vã, xúc phạm danh dự nhân phẩm của nhau, nhiều lần xảy xô xát dẫn tới chị M không chịu nổi phải bỏ về nhà mẹ đẻ sinh sống, vợ chồng ly thân từ tháng 8 năm 2018 đến nay không quan tâm gì đến nhau. Mặc dù anh T đã động viên chị M về chung sống nhưng vợ chồng vẫn sống ly thân, không quan tâm gì đến nhau; quá trình giải quyết đã được Tòa án hòa giải nhưng không có kết quả. Xét thấy mâu thuẫn vợ chồng đã phát sinh và tồn tại trong một thời gian, nhận thấy đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được vì vậy cần xử ly hôn giữa chị M và anh T là phù hợp thực tế và có căn cứ pháp luật.

[2] Về con chung: Vợ chồng có một con chung là cháu Trần Gia H, sinh ngày 13/11/2017. Xét nguyện vọng nuôi con chung của các đương sự và để đảm bảo điều kiện nuôi con chung tốt nhất, xét thấy con chung còn nhỏ, từ khi ly thân do chị M nuôi dưỡng vì thế cần giao chị M trực tiếp nuôi dưỡng con chung cho đến khi cháu đủ 18 tuổi, trưởng thành, tự lập được. Về cấp dưỡng nuôi con chung: anh T phải phải cấp dưỡng nuôi con chung theo quy định của pháp luật.

[3] Về tài sản chung, công nợ, công sức: Đương sự không yêu cầu nên không đặt ra xem xét.

[4] Về án phí ly hôn sơ thẩm chị Lương Thị Thúy M phải chịu theo quy định. Án phí cấp dưỡng nuôi con anh Trần Văn T phải chịu theo quy định.

Vì các lẽ trên, Căn cứ:

QUYẾT ĐỊNH

- Điều 28; 35; 39; 147 Bộ luật tố tụng dân sự.

- Điều 51, 56, 58, 81, 82, 83; 107; 110; 116; 117 Luật hôn nhân gia đình;

- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

1. Xử ly hôn giữa chị Lương Thị Thúy M và anh Trần Văn T.

2. Về con chung: Giao chị Lương Thị Thúy M trực tiếp nuôi dưỡng cháu Trần Gia H sinh ngày 13/11/2017 cho đến khi cháu đủ 18 tuổi, trưởng thành, tự lập được. Anh Trần Văn T phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị Lương Thị Thúy M hàng tháng, mỗi tháng 1.500.000đ (Một triệu năm trăm ngàn đồng) kể từ tháng 08/2019 cho đến khi con chung đủ 18 tuổi, trưởng thành, tự lập được. Các bên được quyền thăm hỏi, chăm sóc, giáo dục con chung theo quy định của pháp luật. Chị M và các thành viên trong gia đình không được cản trở anh T trong việc thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung.

3. Án phí ly hôn sơ thẩm: chị Lương Thị Thúy M phải chịu 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng). Số tiền tạm ứng án phí 300.000đ chị M đã nộp theo biên lai số 0003012 ngày 27/5/2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện D được đối trừ khi thi hành án. Án phí cấp dưỡng nuôi con chung: anh Trần Văn T phải chịu 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng).

Án xử công khai sơ thẩm; Chị Lương Thị Thúy M, anh Trần Văn T được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có 3 quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

213
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 14/2019/HNGĐ-ST ngày 18/07/2019 về ly hôn, nuôi con

Số hiệu:14/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Duy Tiên - Hà Nam
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 18/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về