Bản án 14/2018/HS-ST ngày 23/01/2018 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ THUẬN AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 14/2018/HS-ST NGÀY 23/01/2018 VỀ TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 23 tháng 01 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 07/2018/TLST-HS ngày 10 tháng 01 năm 2018, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 14/2018/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 01 năm 2018 đối với bị cáo:

Trương Văn P, sinh năm 1995 tại Nghệ An; nơi ĐKNKTT: Xã Nghi V, huyện Nghi L, tỉnh Nghệ An; trình độ học vấn: 8/12; nghề nghiệp: Làm thuê; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Thiên chúa giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trương Văn B (đã chết) và bà Hoàng Thị H, sinh năm: 1961; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giam ngày từ 18-9-2017 cho đến nay. Có mặt.

Người bị hại:

- Ông Lê Văn P, sinh năm 1984; nơi ĐKNKTT: Ấp Phước T, xã Vĩnh P, huyện Gò Q, tỉnh Kiên Giang; chỗ ở: Phường Phú M, thành phố Thủ Dầu M, tỉnh Bình Dương. Vắng mặt.

Người làm chứng:

- Ông Đỗ Văn T, sinh năm 1982; nơi ĐKNKTT: xã Thiệu T, huyện Thiệu H, tỉnh Thanh Hóa; chỗ ở: Xã Phù T, huyện Bến C, tỉnh Bình Dương. Vắng mặt.

- Ông Nguyễn Minh T, sinh năm 1979; nơi ĐKNKTT: Phường An P, thị xã Thuận A, tỉnh Bình Dương. Vắng mặt.

- Ông Phan Văn R, sinh năm 1983; nơi ĐKNKTT: Phường An P, thị xã Thuận A, tỉnh Bình Dương. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 07 giờ 00 phút ngày 18-9-2017, Trương Văn P đang ở phòng trọ tại phường Bình C, quận Thủ Đ, Thành phố Hồ Chí Minh thì đối tượng tên C (chưa xác định được nhân thân, địa chỉ) điều khiển xe môtô Exciter 150 màu đen đến rủ P đi tìm xe môtô để trộm cắp bán lấy tiền tiêu xài, P đồng ý. C đưa cho P 02 mũi đoản hình lục giác, đầu mài dẹp dùng để phá khoá xe, C điều khiển xe chở P đi đến công trình đang xây dựng tại khu phố Hoà L, phường Thuận G, thị xã Thuận A, tỉnh Bình Dương, C nhìn thấy xe môtô loại Wave biển số 68E1-206-91 của ông Lê Văn P đang dựng trước công trình xây dựng không có người trông giữ nên C dừng xe phía ngoài cảnh giới rồi đưa cho P 01 cây đoản hình chữ T bọc bằng khẩu trang màu đỏ để P đi vào lấy trộm xe. P dùng cây đoản phá được khoá xe, lên xe nổ máy chạy ra đường được khoảng 30m thì bị ông Phan Văn R và ông Nguyễn Minh T là lực lượng phòng chống tội phạm phường An P, thị xã Thuận A phát hiện bắt giữ cùng tang vật, riêng C đã tẩu thoát.

Theo bản kết luận định giá tài sản ngày 19-9-2017 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thị xã Thuận A kết luận: 01 xe môtô loại Wave biển số 68E1-206-91 trị giá 11.000.000đồng.

Bản Cáo trạng số 19/QĐ-KSĐT ngày 09-01-2018 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Thuận An đã truy tố bị cáo Trương Văn P về tội “Trộm cắp tài sản” theo Khoản 1 Điều 138 của Bộ luật Hình sự năm 1999 (được sửa đổi, bổ sung năm 2009).

Tại phiên tòa:

Bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên, không có ý kiến gì về nội dung Bản Cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương truy tố.

Vị đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng Khoản 1 Điều 138; Điểm g, h, p Khoản 1 Điều 46 của Bộ luật Hình sự năm 1999 (được sửa đổi, bổ sung năm 2009), xử phạt bị cáo Trương Văn P từ 09 đến 12 tháng tù.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, Quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, Quyết định của những người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Lời khai nhận của bị cáo Trương Văn P tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án, biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản xác định hiện trường, vật chứng thu giữ, kết luận định giá, lời khai của người bị hại, người làm chứng, có đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 07 giờ 30 phút ngày 18-9-2017, P dùng đoản bằng kim loại phá khóa xe môtô biển số 68E1-206-91 của ông Lê Văn P đang dựng trước công trình xây dựng tại khu phố Hoà L, phường Thuận G, thị xã Thuận A, tỉnh Bình Dương rồi điều khiển xe tẩu thoát thì bị phát hiện bắt quả tang cùng tang vật. Hành vi của bị cáo lén lút chiếm đoạt xe môtô trị giá 11.000.000đồng đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo Khoản 1 Điều 138 của Bộ luật Hình sự năm 1999 (được sửa đổi, bổ sung năm 2009).

Bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương đã truy tố đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

Xét hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo là người có đầy đủ năng lực hành vi, nhận thức được việc làm của mình là vi phạm nhưng vì động cơ tư lợi, bị cáo vẫn cố tình thực hiện. Bị cáo đi từ địa phương này đến địa phương khác để tìm tài sản trộm cắp. Sau khi phát hiện có tài sản, bị cáo lợi dụng sự sơ hở của người khác trong việc quản lý rồi lén lút chiếm đoạt tài sản của họ. Hành vi của bị cáo trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự, trị an tại địa phương. Lỗi của bị cáo là cố ý trực tiếp, do đó cần xử phạt bị cáo với mức án tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội, cách ly ra khỏi xã hội một thời gian nhằm đảm bảo tính giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn, tài sản đã thu hồi trả cho người bị hại là tình tiết giảm nhẹ theo các Điểm g, h, p Khoản 1 Điều 46 của Bộ luật Hình sự năm 1999 (được sửa đổi, bổ sung năm 2009).

Lời đề nghị mức hình phạt của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa có căn cứ, đúng luật, phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo nên được chấp nhận.

Xét thấy bị cáo không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt tiền bổ sung.

Đối với đối tượng C tham gia cùng bị cáo hiện chưa xác định được nhân thân, lai lịch nên tách ra khi nào làm rõ sẽ xử lý sau.

Về trách nhiệm dân sự:

Người bị hại ông P vắng mặt tại phiên tòa nhưng trong hồ sơ thể hiện đã nhận lại tài sản bị chiếm đoạt, không yêu cầu gì nên không xem xét.

Về xử lý vật chứng: Quá trình điều tra, Cơ quan Điều tra thu giữ:

- 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda, số loại Wave, biển số 68E1-206.91 là tài sản của ông Lê Văn P. Ngày 02-10-2017 Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an thị xã Thuận An đã trả lại cho chủ sở hữu là đúng quy định.

- 01 cây kim loại tròn hình chữ T; 02 cây kim loại hình lục giác được mài dẹp một đầu; 01 khẩu trang bằng vải màu đỏ là công cụ phạm tội, không có giá trị sử dụng nên tịch thu, tiêu hủy.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 138; Điểm g, h, p Khoản 1 Điều 46 của Bộ luật Hình sự năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009; Điều 106, 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

1. Về trách nhiệm hình sự:

Tuyên bố bị cáo Trương Văn P phạm tội “Trộm cắp tài sản”;

Xử phạt bị cáo Trương Văn P 09 (chín) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 18-9-2017.

2. Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu, tiêu hủy: 01 cây đoản bằng kim loại hình chữ T; 02 cây đoản bằng kim loại hình lục giác được mài dẹp một đầu; 01 khẩu trang bằng vải màu đỏ. (Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 08-01-2018).

2. Về án phí:

Bị cáo phải chịu 200.000đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

3. Về quyền kháng cáo:

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai theo quy định pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

219
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 14/2018/HS-ST ngày 23/01/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:14/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thuận An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/01/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về