Bản án 14/2018/HS-ST ngày 22/06/2018 về tội cố ý gây thương tích

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUẢNG TRẠCH, TỈNH QUẢNG BÌNH

BẢN ÁN 14/2018/HS-ST NGÀY 22/06/2018 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 22 tháng 6 năm 2018, tại trụ sở Ủy ban nhân dân xã Q, huyện Q, tỉnh Quảng Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 17/2018/TLST-HS ngày 10 tháng 5 năm 2018, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 20/2018/QĐXXST-HS ngày 07/6/2018, đối với bị cáo:

Đinh Quang T, sinh ngày 03/7/1995; tại: xã Q, huyện Q, tỉnh Quảng Bình; nơi cư trú: thôn V, xã Q, huyện Q, tỉnh Quảng Bình; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hóa: lớp 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đinh Văn H và bà Đặng Thị H (chết); vợ, con: chưa có; tiền án, tiền sự: không. Bị bắt tạm giữ từ ngày 14/02/2018 đến ngày 23/02/2018 được thay thế bằng biện pháp “Cấm đi khỏi nơi cư trú”, có mặt tại phiên tòa.

- Người bị hại: Anh Phạm Thành L, sinh năm 1995; nơi cư trú: thôn H, xã Q, huyện Q, tỉnh Quảng Bình, có mặt.

- Những người làm chứng:

Võ Xuân T, nơi cư trú: thôn V, xã Q, huyện Q, tỉnh Quảng Bình, vắng mặt. Đàm Ngọc T, Nguyễn Văn H, Phạm Quốc C, Trần Xuân T, Phạm Văn T, Trịnh Ngọc X, Đàm Thị H, Phạm Thành L, Võ Văn L, Phạm Thị H, cùng cư trú: thôn H, xã Q, huyện Q, tỉnh Quảng Bình, tất cả đều vắng mặt.

Đặng Văn Q, Phạm Đình T, Nguyễn Văn Đ, Phạm Ngọc G, Nguyễn Thị Thanh T, nơi cư trú: thôn H, xã Q, huyện Q, tỉnh Quảng Bình, tất cả đều vắng mặt.

Nguyễn Văn T, nơi cư trú: thôn T, xã Q, huyện Q, tỉnh Quảng Bình, vắng mặt.

Đàm Thị Linh H, Võ Thị Mai L, nơi cư trú: thôn D, xã Q, huyện Q, tỉnh Quảng Bình, đều vắng mặt.

Nguyễn Thị D, nơi cư trú: thôn D, xã Q, huyện Q, tỉnh Quảng Bình, có mặt. Huỳnh Thị Tuyết M, nơi cư trú: thôn T, xã Q, huyện Q, tỉnh Quảng Bình, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 14 giờ ngày 12/02/2018, Đinh Quang T, Võ Xuân T cùng Đàm Ngọc T và một số người bạn rủ nhau đi hát Karaoke tại quán MrĐàm ở thôn D, xã Q. Khi đến hát thì có 02 phòng khác cũng đang hát, cụ thể: tại phòng số 07 có Phạm Thành L, Phạm Ngọc G, Nguyễn Văn Đ, Võ Văn L, Nguyễn Văn T và Nguyễn Thị Thanh T và một số người khác; phòng số 01 có Trịnh Ngọc X, Phạm Thành L, Trần Xuân T, Phạm Quốc C, Phạm Văn T, Nguyễn Văn H và một số người khác. Trong lúc hát tại phòng số 05, T lấy dao ở trong túi quần ra gọt hoa quả, thấy vậy Võ Xuân T mượn dao gọt hoa quả rồi bỏ vào túi quần sau của mình. Quá trình hát giữa phòng số 05 của T, T xảy ra mâu thuẫn với phòng số 07 dẫn đến đánh nhau nhưng được mọi người can ngăn nên các phòng quay lại tiếp tục hát. Một lúc sau giữa các phòng lại xảy ra mâu thuẫn, xô xát, khi đó Trịnh Ngọc X ở phòng số 01 nghe ồn ào ra xem thì thấy giữa nhóm Q, T với nhóm của L đang xâu ẩu. Do quen biết cả hai bên nên X đứng ra can ngăn nhưng do hai bên xảy ra xâu ẩu quyết liệt nên X đánh cả L và T. Thấy bạn mình bị đánh nên T chạy lại can ngăn thì bị nhóm của X vây đánh. Trong lúc bị đánh, T nhớ đến con dao trước đó T mượn đang bỏ ở túi quần sau của T nên T đi ra phía sau lưng rồi lấy con dao trong túi T bỏ vào túi quần sau của mình. Thấy lộn xộn X liền ôm cổ của T và T kéo ra hướng cổng quán. Khi ra được một đoạn thì X bị đánh vào mặt nên buông tay ra, T và T thoát ra được thì được G và một số người nữa can ngăn đẩy ra cổng quán. Khi đến gần vị trí cây Si đường ra cổng quán thì Phạm Thành L lao đến dùng tay đánh T 02 cái, thấy T bị đánh nên một thanh niên trong nhóm đẩy L ra không cho đánh nữa. Lúc đó do bức xúc, T dùng tay phải lấy dao ra, bật lưỡi dao lên rồi lao đến đâm từ trước ra sau, từ phải qua trái trúng vào L của L. Thấy L lùi về sau, T lại tiếp tục lao đến đâm tiếp một nhát vào vùng mông của L. T đưa dao hướng về số người đánh mình và T rồi nói “bây mà đánh tau với T thì tau đâm”. Khi không thấy ai xông vào đánh nữa thì T cầm dao chạy ra cổng rồi chạy chạy ra hướng Quốc lộ 1A thì được Đàm Ngọc T chở ra hướng vùng Ròon. Sau đó T mang dao về nhà cất giấu ở trong giày để ở nhà bếp của mình rồi đi ngủ. Phạm Thành L bị T gây thương tích phải đưa đi cấp cứu, điều trị tại Bệnh viện Trung ương Huế từ ngày 13/02/2018 đến ngày 23/02/2018 thì ra viện.

Tại bản kết luận giám định pháp y về tổn thương cơ thể số: 84-18/TgT ngày 04/4/2018 của Trung tâm Pháp y tỉnh Thừa Thiên Huế kết luận: Tỷ lệ tổn thương chung cơ thể của Phạm Thành L hiện tại là 23%.

Tại Cáo trạng số 18/CT-VKSQT ngày 09 tháng 5 năm 2018, Viện kiểm sát nhân dân huyện Quảng Trạch đã truy tố bị cáo Đinh Quang T về tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Quảng Trạch giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo theo toàn bộ nội dung bản cáo trạng, có xem xét đến các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; các điểm b, e, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 và khoản 2 Điều 65 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Đinh Quang T từ 24 đến 30 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, với thời gian thử thách từ 48 đến 60 tháng, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm; áp dụng điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy: 01 con dao, loại dao gập dài 10cm.

Bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên, nhận thấy hành vi của mình là vi phạm pháp luật và nhất trí với tội danh, khung hình phạt mà Viện kiểm sát nhân dân huyện Quảng Trạch đã truy tố, kết tội bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Đinh Quang T đã khai nhận toàn bộ về hành vi phạm tội của mình vào ngày 12/02/2018, trong khi xảy ra xâu ẩu, đánh nhau Đinh Quang T đã có hành vi dùng dao đâm 02 nhát trúng vào lưng và mông của anh Phạm Thành L. Hậu quả anh Phạm Thành L phải đi cấp cứu, điều trị tại bệnh viện, gây tổn hại sức khỏe với tỷ lệ tổn thương chung cơ thể hiện tại là 23%. Diễn biến hành vi phạm tội mà bị cáo khai nhận phù hợp với lời khai của người bị hại, những người làm chứng; kết quả giám định tổn thương cơ thể của Trung tâm Pháp y tỉnh Thừa Thiên Huế; phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác đã được thu thập tại hồ sơ vụ án và đã được thẩm tra, tranh tụng tại phiên tòa. Hành vi của bị cáo đã sử dụng dao là vũ khí nguy hiểm gây thương tích, gây tổn thương cơ thể cho anh L đã đủ yếu tố cấu thành tội “Cố ý gây thương tích” được quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự, với tình tiết “dùng hung khí nguy hiểm” được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự.

[3] Xét tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân cùng các tình tiết khác có ý nghĩa cho việc giải quyết vụ án, Hội đồng xét xử thấy rằng:

Tính chất của hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện là nghiêm trọng, gây nguy hại lớn cho xã hội. Hành vi đã trực tiếp xâm phạm quyền bất khả xâm phạm về thân thể, sức khỏe, gây ảnh hưởng nặng nề về tinh thần cho người bị hại, đồng thời còn xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội nói chung, gây tâm lý bất bình trong quần chúng nhân dân. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực nhận thức pháp luật, nhận thức được hành vi dùng dao nhọn là hung khí nguy hiểm đâm nhiều nhát vào cơ thể người khác là vi phạm pháp luật, có thể gây thương tích cao cho anh Linh nhưng vẫn cố ý thực hiện. Vì vậy, cần thiết phải xét xử bị cáo với hình phạt nghiêm, tương xứng với hậu quả, tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra.

Tuy nhiên, xét về nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thấy rằng: Bị cáo là người có nhân thân tốt, bị cáo không có tiền án, tiền sự; tự nguyện bồi thường đầy đủ các khoản chi phí hợp lý cho người bị hại nhằm khắc phục hậu quả mà bị cáo đã gây ra và được người bị hại viết đơn xin giảm nhẹ hình phạt, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng án treo; trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; hành vi của bị cáo gây ra có một phần lỗi của người bị hại đã đánh bị cáo hai cái trước khiến bị cáo bị kích động về tinh thần. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm b, e, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Từ những nhận định, đánh giá nêu trên, xét thấy chưa cần thiết phải cách ly bị cáo ra ngoài đời sống xã hội mà áp dụng khoản 1 và khoản 2 Điều 65 Bộ luật Hình sự cho bị cáo Đinh Quang T được cải tạo, giáo dục tại địa phương là cũng đủ nghiêm và thể hiện chính sách nhân đạo của pháp luật.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo đã dùng dao đâm gây thương tích cho anh Phạm Thành L phải đi cấp cứu, điều trị, do vậy phải chịu trách nhiệm bồi thường toàn bộ thiệt hại gây ra. Quá trình điều tra bị cáo đã tự nguyện thực hiện việc bồi thường thiệt hại đầy đủ các khoản chi phí cứu chữa, điều trị và các khoản chi phí hợp lý khác theo yêu cầu của người bị hại anh Phạm Thành L với tổng số tiền là 45.000.000 đồng. Đến tại phiên toà người bị hại không có yêu cầu bồi thường gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về xử lý vật chứng: Vật chứng liên quan đến vụ án đã được tạm giữ để điều tra và được xử lý trả lại cho chủ sở hữu theo quy định của pháp luật. Đối với01 con dao, loại dao gập, dài 10cm, rộng 03cm thu giữ, xác định đây là vật mà bị cáo sử dụng làm công cụ, phương tiện phạm tội hiện không có giá trị, không sử dụng được nên cần áp dụng điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy.

[6] Về án phí: Bị cáo Đinh Quang T phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: điểm đ khoản 2 Điều 134; các điểm b, e, s khoản 1 Điều 51, khoản 2 Điều 51; khoản 1 và khoản 2 Điều 65 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên bố: Bị cáo Đinh Quang T phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

Xử phạt bị cáo Đinh Quang T 26 (hai mươi sáu) tháng tù cho hưởng án treo với thời gian thử thách là 52 (năm mươi hai) tháng, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo Đinh Quang T về cho Ủy ban nhân dân xã Q, huyện Q, tỉnh Quảng Bình phối hợp với gia đình của bị cáo giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách của án treo.

Trong T hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 của Luật Thi hành án hình sự.

Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 con dao, loại dao gập, có đặc điểm được mô tả cụ thể tại Biên bản giao nhận vật chứng giữa cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Quảng Trạch với Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quảng Trạch ngày 09/5/2018.

Về án phí: Buộc bị cáo Đinh Quang T phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm để sung vào công quỹ nhà nước.

Bị cáo, người bị hại được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 22/6/2018).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

269
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 14/2018/HS-ST ngày 22/06/2018 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:14/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quảng Trạch - Quảng Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/06/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về