Bản án 14/2018/HS-ST ngày 13/03/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy            .

TOÀ ÁN NHÂNDÂN HUYỆN NAM SÁCH, TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 14/2018/HS-ST NGÀY 13/03/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 13 tháng 3 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Nam sách tỉnh Hải Dương, xét xử công khai sơ thẩm vụ án Hình sự thụ lý số 12/2018/HS-ST ngày 02/02/2018 đối với bị cáo:

Lê Văn T, sinh năm 1999;

ĐKHKTT: Thôn Đ, xã H, huyện T, tỉnh Hải Dương;

Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn M, sinh năm 1966 và bà Bùi Thị H, sinh năm 1971; Tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị tạm giữ ngày 13/01/2018 đến ngày 15/01/2018 chuyển tạm giam tại trại tạm giam Kim Chi, Công an tỉnh Hải Dương; (có mặt).

- Người làm chứng: Anh Lê Anh T, sinh năm 1999; Địa chỉ: Khu H, thị trấn N, huyện N, tỉnh Hải Dương - (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 21 giờ 30 phút ngày 12/01/2018 Lê Văn T đang làm việc tại quán C ở Khu T, phường A, thành phố H, tỉnh Hải Dương thì D là bạn mới quen của T (không rõ địa chỉ) đến nhờ T mua 500.000đồng ma túy đá để sử dụng. Do cũng có nhu cầu sử dụng ma túy nên T đồng ý. D đưa cho T 500.000đ và hẹn T giao ma túy tại đường Hảo Thôn, xã Đồng lạc, huyện Nam Sách. T cầm tiền đi ra khu vực ngã ba Tiền Trung tìm mua của người thanh niên tên là S (không rõ địa chỉ) 01 gói ma túy đựng trong túi ni lon màu trắng kích thước 3x2,5cm với giá 500.000đồng. T đút gói ma túy vào túi quần phía trước bên phải rồi bắt xe taxi đi về thôn Hảo Thôn, xã Đồng Lạc để gặp D. Khoảng 23 giờ cùng ngày khi T xuống xe đi bộ vào thôn Hảo Thôn, xã Đồng Lạc, huyện Nam Sách thì bị Công an huyện Nam Sách bắt quả tang, thu trong túi quần phía trước bên phải của T 01 gói ni lon màu trắng kích thước 3x2,5cm bên trong có chứa tinh thể màu trắng.

Tại kết luận giám định số 36/KLGĐ ngày 13/01/2018 của phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hải Phòng kết luận: Tinh thể màu trắng trong gói nilon thu giữ của Lê Văn T có trọng lượng 0,2803 gam là loại Methamphetamin.

Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận quá trình phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng của VKS nhân dân huyện Nam Sách đã truy tố.

Bản cáo trạng số 14/VKS-HS ngày 01 tháng 02 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Nam Sách truy tố bị cáo Lê Văn T về tội: "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố, giữ nguyên cáo trạng truy tố bị cáo và đề nghị HĐXX áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; điểm c khoản 1 Điều 47 BLHS. Điểm a khoản 2 Điều 106;khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự, Luật phí và lệ phí năm 2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về  mức thu án phí và lệ phí. Xử phạt bị cáo T từ 12 đến 15 tháng tù, thời hạn tính từ ngày bắt tạm giữ 13/01/2018 Hình phạt bổ sung không áp dụng; Vật chứng: Tịch thu cho hủy bỏ 0,1762gam Methamphetamine hoàn lại sau giám định. Bị cáo phải chịu án phí hình sự theo quy định.

Bị cáo nói lời sau cùng đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo và đề nghị do bị cáo việc làm không ổn định không có tài sản riêng nên miễn hình phạt bổ sung cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Nam Sách, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục tố tụng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Lời khai của bị cáo Lê Văn T tại phiên toà phù hợp lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng là anh Lê Anh T, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản thu giữ vật chứng, Kết luận giám định có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, có đủ cơ sở kết luận:

[3] Vào 23 giờ ngày 13/01/2018, tại đường vào thôn Hảo Thôn, xã Đồng Lạc, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương, Lê Văn T có hành vi cất giấu trái phép 0,2830gam Methamphetamin, mục đích sử dụng cho bản thân, Công an huyện Nam Sách đã phát hiện, bắt quả tang. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, thực hiện với lỗi cố ý, vì vậy Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Lê Văn T phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy", theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS.

[4] Hành vi của bị cáo đã xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội. Methamphettamine là chất ma túy rất độc, gây nghiện, gây nguy hại cho cơ thể người sử dụng, ảnh hưởng đến sự phát triển lành mạnh của các thế hệ sau này, ảnh hưởng đến kinh tế của cả xã hội. Đây cũng là nguyên nhân làm phát sinh các tệ nạn trong xã hội. Bị cáo hiểu rõ tác hại của ma túy nhưng vẫn cố ý phạm tội. Vì vậy cần phải có mức hình phạt nghiêm khắc với bị cáo.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, thật thà khai báo, ăn năn hối cải, vì vậy bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS.

[6] Về hình phạt bổ sung: Căn cứ khoản 5 Điều 249 BLHS, bị cáo còn có thể phải bị phạt tiền. Tuy nhiên, do bị cáo nghề nghiệp không ổn định, không có tài sản riêng, kinh tế khó khăn nên không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền với bị cáo.

[7] Vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 BLHS, Điểm a khoản 2 Điều 106 BLTTHS về xử lý vật chứng: 0,1762gam Methamphetamine hoàn lại sau giám định đã được niêm phong trong bì thư số 36/PC54  là vật Nhà nước cấm lưu hành nên tịch thu cho tiêu hủy.

[8] Án phí:

 Áp dụng khoản 2 Điều 136 BLTTHS, Luật phí và lệ phí năm 2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

[9] Đối với người thanh niên tên D đưa tiền cho T đi mua ma túy và người thanh niên tên S bán ma túy cho T như T khai, do chưa xác định được nhân thân, địa chỉ của D và S nên chưa có căn cứ xử lý là phù hợp.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 BLHS;

Tuyên bố: Bị cáo Lê Văn T phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

Xử  phạt:  Lê Văn T 12 (mười hai) tháng  tù  thời  hạn  tính  từ ngày tạm giữ

13/01/2018, tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.Vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 BLHS, Điểm a khoản 2 Điều 106 BLTTHS.

Tịch thu tiêu hủy 0,1762gam Methamphetamine hoàn lại sau giám định đã được niêm phong trong bì thư số 36/PC54 (theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an huyện Nam Sách với Chi cục THA dân sự huyện Nam Sách ngày 09/02/2018 ).

Án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 BLTTHS, Luật phí và lệ phí năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu án phí và lệ phí Tòa án , Lê Văn T phải chịu 200.000đồng án phí sơ thẩm hình sự.

Về quyền kháng cáo đối với bản án: Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

202
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 14/2018/HS-ST ngày 13/03/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy            .

Số hiệu:14/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nam Sách - Hải Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/03/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về