Bản án 14/2018/HNGĐ-ST ngày 09/03/2018 về ly hôn và tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ P, TỈNH GIA LAI

BẢN ÁN 14/2018/HNGĐ-ST NGÀY 09/03/2018 VỀ LY HÔN VÀ TRANH CHẤP NUÔI CON

Trong ngày 09 tháng 3 năm 2018 tại Tòa án nhân dân thành phố P, tỉnh Gia Lai xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 692/2017/TLST-HNGĐ ngày 25 tháng 10 năm 2017 về việc “Ly hôn và tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 09/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 18 tháng 01 năm 2018, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Hồ Thị Bích H, sinh năm 1977.

Địa chỉ: 243 đường T, phường D, thành phố P, tỉnh Gia Lai. Có mặt.

2. Bị đơn: Ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1972.

Địa chỉ: Tổ 3, phường T, thành phố P, tỉnh Gia Lai. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

1. Trong đơn khởi kiện ngày 20-10-2017 và bản khai ngày 25-10-2017,nguyên đơn là bà Hồ Thị Bích H trình bày:

Bà và ông Nguyễn Văn T tự nguyện tìm hiểu, chung sống với nhau và có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân phường Y, thành phố P, tỉnh Gia Lai vào ngày 02-10-2000. Trong cuộc sống hôn nhân, vợ chồng không có hạnh phúc. Đến nay phát sinh nhiều mâu thuẫn và không đồng quan điểm nên thường xuyên cãi nhau, cuộc sống vợ chồng không có hạnh phúc, không còn yêu thương và tôn trọng nhau. Nay nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, cuộc sống hôn nhân không thể kéo dài, bà yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông Nguyễn Văn T.

Bà và ông Nguyễn Văn T có hai con chung là cháu Nguyễn Trọng N, sinh ngày 30-3-2003 và cháu Nguyễn Khoa T, sinh ngày 15-11-2011. Hiện hai cháu đang ở với bà nên khi ly hôn, nguyện vọng của bà là được tiếp tục trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng hai cháu và không yêu cầu ông Nguyễn Văn T cấp dưỡng nuôi con.

Bà không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản chung và nghĩa vụ chung.

2. Toà án đã tiến hành đầy đủ các thủ tục để triệu tập hợp lệ đối với bị đơn là ông Nguyễn Văn T. Tuy nhiên, ông Nguyễn Văn T không đến Toà án để tham gia tố tụng. Do vậy, ông Nguyễn Văn T không có lời khai tại hồ sơ vụ án và cũng không có lời khai tại phiên toà.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án và đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Hồ Thị Bích H; giao cháu Nguyễn Trọng N và cháu Nguyễn Khoa T cho bà Hồ Thị Bích H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục và bà Hồ Thị Bích H phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Bị đơn là ông Nguyễn Văn T đã được Tòa án tống đạt hợp lệ để bị đơn tham gia phiên hòa giải và tham gia tố tụng tại phiên tòa nhưng bị đơn vẫn vắng mặt nên theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.

[2] Về hôn nhân: Bà Hồ Thị Bích H và ông Nguyễn Văn T đăng ký kết hôn ngày 02-10-2000 tại Uỷ ban nhân dân phường Y, thành phố P, tỉnh Gia Lai trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, nên đây là hôn nhân hợp pháp.

Trong quá trình chung sống, ông bà phát sinh nhiều mâu thuẫn, ông bà không yêu thương, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau, người nào chỉ biết bổn phận người đó. Mặc dù, đã được hai bên gia đình nhắc nhở, hòa giải nhiều lần nhưng ông bà vẫn tiếp tục sống ly thân và bỏ mặc nhau.

Mặt khác, trong quá trình giải quyết vụ án ông T đã được Tòa án tống đạt đầy đủ các thủ tục để ông T tham gia tố tụng, trình bày ý kiến của mình về việc bà H xin ly hôn nhưng ông T đều vắng mặt chứng tỏ ông không quan tâm đến việc có cần tiếp tục duy trì cuộc hôn nhân của vợ chồng hay không.

Chính vì vậy, đã có đủ cơ sở để nhận định rằng, tình trạng hôn nhân của họđã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, quan hệ vợ chồng đã thực sự không thể hàn gắn được nữa, mục đích của hôn nhân là xây dựng một gia đình hoà thuận, hạnh phúc không đạt được nên yêu cầu của bà H về việc ly hôn ông T là có căn cứ, được chấp nhận.

[3] Về con: Bà Hồ Thị Bích H và ông Nguyễn Văn T có hai con chung là cháu Nguyễn Trọng N, sinh ngày 30-3-2003 và cháu Nguyễn Khoa T, sinh ngày 15-11-2011. Xét thấy, từ nhỏ cho đến nay hai cháu ở với bà H, được chăm sóc, nuôi dạy chu đáo, bà H có công việc và thu nhập ổn định nên đủ khả năng, điều kiện để nuôi dưỡng các con, đảm bảo được cuộc sống và sự phát triển bình thường về mọi mặt cho các con và cháu Nguyễn Trọng N cũng có nguyện vọng được ở với bà H; nguyện vọng của bà H và cháu N là chính đáng, đúng pháp luật, đảm bảo quyền lợi của các con vì vậy Hội đồng xét xử chấp nhận giao cháu N và cháu T cho bà H tiếp tục trực tiếp chăm nom, nuôi dưỡng và giáo dục.

[4] Về nghĩa vụ cấp dưỡng cho con: Bà H không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không giải quyết.

[5] Về tài sản chung và nghĩa vụ chung: Bà H không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không giải quyết.

[6] Về án phí: Bà H là nguyên đơn xin ly hôn nên phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 28, 35, 147, điểm b khoản 2 Điều 227 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ các Điều 51, 56, 81, 82, 83 và 84 của Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ Nghị quyết số 326/2014/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Hồ Thị Bích H; bà Hồ Thị Bích Hđược ly hôn ông Nguyễn Văn T.

2. Giao cháu Nguyễn Trọng N, sinh ngày 30-3-2003 và cháu Nguyễn Khoa T, sinh ngày 15-11-2011 cho bà Hồ Thị Bích H trực tiếp chăm nom, nuôi dưỡng và giáo dục cho đến khi thành niên hoặc đã thành niên mà mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.

Người không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặcgây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức theo quy định của pháp luật, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con.

3. Bà Hồ Thị Bích H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 300.000 đồng, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai số 0003736 ngày 25-10-2017 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố P, tỉnh Gia Lai; bà Hồ Thị Bích H đã nộp đủ tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bịcưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự;thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

4. Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bà Hồ Thị Bích H có quyền kháng cáo yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai xét xử phúc thẩm. Riêng ông Nguyễn Văn T vắng mặt tại phiên toà, nên ông có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ hoặc được niêm yết công khai.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

201
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 14/2018/HNGĐ-ST ngày 09/03/2018 về ly hôn và tranh chấp nuôi con

Số hiệu:14/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Pleiku - Gia Lai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 09/03/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về