Bản án 14/2017/DS-ST ngày 19/09/2017 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ BUÔN HỒ, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 14/2017/DS-ST NGÀY 19/09/2017 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 19/9/2017, tại Hội trường xét xử, Toà án nhân dân thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 71/2017/TLST-DS ngày 31/5/2017 về việc “Tranh chấp Hợp đồng vay tài sản” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 16/2017/QĐXX-ST ngày 14/8/2017 và quyết định hoãn phiên tòa số 13/2017/QĐST-DS ngày 29/8/2017 giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Bà Lê Thị Thúy N.

Địa chỉ: Số X, đường Y, tổ dân phố Z, phường A, thị xã B, tỉnh Đắk Lắk. Người đại diện theo ủy quyền là ông Nguyễn Đình B Có mặt.

Địa chỉ: Số E, đường H, phường A, thị xã B, tỉnh Đắk Lắk

(Theo văn bản ủy quyền ngày 28/4/2017).

* Bị đơn: Bà Đặng Thị Thanh T. Vắng mặt.

Địa chỉ: Số D, đường N, tổ dân phố M, phường A, thị xã B, tỉnh Đắk Lắk.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện đề ngày 22/5/2017 và trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn bà Lê Thị Thúy N và đại diện theo ủy quyền của bà N trình bày có nội dung: Do có quan hệ quen biết nên vào các ngày 25/10/2015 và ngày 18/12/2015, bà N đã cho bà Đặng Thị Thanh T vay tổng cộng số tiền 31.000.000 đồng (Ba mươi mốt triệu đồng). Khi vay, hai bên đã viết giấy tay và hẹn ngày trả nợ. Tuy nhiên, đến hẹn, bà T không chịu trả nợ mặc dù đã được N lần yêu cầu.

Do bà T vi phạm nghĩa vụ trả nợ nên bà N yêu cầu Tòa án buộc bà T phải trả cho bà N số nợ gốc là 31.000.000 đồng và nợ lãi cụ thể như sau:

Lãi suất đối với khoản tiền 13.000.000 đồng: 13.000.000 đồng x 11 tháng (từ ngày 25/5/2016 đến ngày 25/5/2017) x 1 %/tháng = 1.430.000 đồng.

Lãi suất đối với khoản tiền 18.000.000 đồng: 18.000.000 đồng x 12 tháng (từ ngày 18/4/2016 đến ngày 18/4/2017) x 1 %/tháng = 2.160.000 đồng.

Tổng số nợ gốc và lãi bà N yêu cầu bà T phải trả là 31.000.000 đồng tiền gốc và 3.590.000 đồng tiền lãi.

Tại phiên tòa, người đại diện của nguyên đơn xin thay đổi một phần nội dung yêu cầu khởi kiện, cụ thể về phần lãi suất, đề nghị Hội đồng xét xử tính theo mức lãi suất cơ bản là 9%/năm, tính từ ngày bà T vi phạm nghĩa vụ trả nợ. Cụ thể, như sau:

Lãi suất đối với khoản tiền 13.000.000 đồng: 13.000.000 đồng x 15 tháng 24 ngày (từ ngày 25/5/2016 đến ngày 19/9/2017) x 0,75 %/tháng = 1.540.500 đồng.

Lãi suất đối với khoản tiền 18.000.000 đồng: 18.000.000 đồng x 17 tháng (từ ngày 18/4/2016 đến ngày 19/9/2017) x 0,75 %/tháng = 2.295.000 đồng.

Tổng số nợ gốc và lãi bà N yêu cầu bà T phải trả là 34.835.500 đồng.

Bị đơn bà Đặng Thị Thanh T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ N lần lên Tòa án để trình bày ý kiến của mình, cũng như triệu tập tham gia các phiên họp, phiên hòa giải nhưng bà T không chấp hành. Tòa án căn cứ vào các tài liệu do nguyên đơn cung cấp và Tòa án thu thập được thể hiện trong hồ sơ để giải quyết vụ án.

Tại phiên tòa, kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa; việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước khi Hội đồng xét xử vào phòng nghị án và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Đây là quan hệ pháp luật tranh chấp về “Tranh chấp hợp đồng dân sự” theo quy định tại khoản 3 Điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự và tranh chấp này thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã Buôn Hồ theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về trình tự thủ tục tố tụng: Hội đồng xét xử xét thấy bà Đặng Thị Thanh T đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ 2 mà vẫn vắng mặt. Do vậy, Hội đồng xét xử xét xử vắng mặt bị đơn bà T là phù hợp với khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.

[3] Xét yêu cầu của nguyên đơn, HĐXX thấy: vào các ngày 25/10/2015 và ngày 18/12/2015, bà N đã cho bà Đặng Thị Thanh T vay tổng cộng số tiền 31.000.000 đồng (Ba mươi mốt triệu đồng). Khi vay, hai bên đã viết giấy tay và hẹn ngày trả nợ. Tuy nhiên, đến hẹn, bà T không chịu trả nợ mặc dù đã được nhiều lần yêu cầu. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã triệu tập hợp lệ bà T nhiều lần đến Tòa án giải quyết nhưng bà T vẫn không đến để tham gia tố tụng tại Tòa án.

Theo yêu cầu của nguyên đơn, Tòa án đã trưng cầu giám định chữ viết và chữ ký của bà Đặng Thị Thanh T trong các giấy vay tiền đề ngày 25/10/2015 và ngày 18/12/2015. Tại Kết luận giám định số 39/PC54 ngày 24 tháng 7 năm 2017 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Đắk Lắk kết luận:

Chữ kí, chữ viết đứng tên Đặng Thị Thanh T trong tài liệu cần giám định ký hiệu A1, A2 so với chữ viết, chữ kí đứng tên Đặng Thị Thanh T trong các tài liệu mẫu so sánh ký hiệu M1, M2, M3 là do cùng một người kí và viết ra.

Như vậy việc bà N khởi kiện yêu cầu bà T phải trả cho bà N số tiền đã vay là 31.000.000 đồng (Ba mươi mốt triệu đồng) tiền gốc là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận là phù hợp với Điều 471, khoản 1 Điều 474 Bộ luật Dân sự 2005.

Về lãi suất, tại phiên tòa hôm nay, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn có thay đổi một phần yêu cầu khởi kiện, chỉ yêu cầu tính theo mức lãi suất cơ bản là 9%/năm, tính từ ngày bà T vi phạm nghĩa vụ trả nợ. Cụ thể, như sau:

Lãi suất đối với khoản tiền 13.000.000 đồng: 13.000.000 đồng x 15 tháng 24 ngày (từ ngày 25/5/2016 đến ngày 19/9/2017) x 0,75 %/tháng = 1.540.500 đồng.

Lãi suất đối với khoản tiền 18.000.000 đồng: 18.000.000 đồng x 17 tháng (từ ngày 18/4/2016 đến ngày 19/9/2017) x 0,75 %/tháng = 2.295.000 đồng.

Hội đồng xét xử nhận thấy, việc vay tiền giữa bà T với bà N thuộc trường hợp vay không có lãi, do đó, bà T phải trả lãi đối với khoản nợ chậm trả theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời hạn chậm trả tại thời điểm trả nợ. Do đó, đối với yêu cầu tính lãi suất của nguyên đơn là có căn cứ, nên Hội đồng xét xử chấp nhận là phù hợp với khoản 4 Điều 474 Bộ luật dân sự 2005.

[4] Về chi phí giám định: quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà Lê Thị Thúy N yêu cầu trưng cầu giám định chữ viết, chữ ký của bà T. Bà N đã nộp tiền tạm ứng chi phí giám định là 4.000.000 đồng để thực hiện việc giám định, chi phí giám định hết 3.900.000 đồng, số tiền còn lại 100.000 đồng đã được trả lại cho bà N theo biên bản giao nhận ngày 26/7/2017 tại Tòa án nhân dân thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk. Kết quả giám định kết luận chứng minh yêu cầu của bà N là có căn cứ nên bà N không phải chịu tiền chi phí giám định.

Bà Đặng Thị Thanh T phải chịu 3.900.000 đồng tiền chi phí giám định. Hoàn trả lại cho bà Lê Thị Thúy N số tiền 3.900.000 đồng sau khi thu được từ bà Đặng Thị Thanh T là phù hợp với các Điều 161, 162 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[5] Về án phí: Nguyên đơn yêu cầu bị đơn trả 34.835.500 đồng, được Tòa án chấp nhận toàn bộ nên theo quy  định tại Điều 144, Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án, bị đơn bà Đặng Thị Thanh T phải chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm với số tiền là 1.741.775 đồng.

Nguyên đơn không phải chịu án phí. Hoàn trả cho bà Lê Thị Thúy N số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 864.000 đồng theo biên lai thu số AA/2016/0003776 ngày 31/5/2017 tại Chi cục thi hành án dân sự thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 3 Điều 26,  điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 144; Điều 147; khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228; khoản 2 Điều 244; Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Điều 471; khoản 1, khoản 4 Điều 474 của Bộ luật Dân sự 2005;

- Khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận yêu cầu của bà Lê Thị Thúy N, buộc bà Đặng Thị Thanh T phải trả cho bà N số tiền 34.835.500 đồng (Ba mươi bốn triệu, tám trăm ba mươi lăm ngàn, năm trăm đồng), trong đó nợ gốc là 31.000.000 đồng, nợ lãi là 3.835.500 đồng.

Áp dụng Điều 357 Bộ luật Dân sự năm 2015 để tính lãi suất trong giai đoạn thi hành án.

2. Về chi phí giám định: Bà Đặng Thị Thanh T phải chịu 3.900.000 đồng (Ba triệu, chín trăm ngàn đồng) tiền chi phi giám định. Hoàn trả lại cho bà Lê Thị Thúy N số tiền tạm ứng chi phí giám định là 3.900.000 đồng sau khi thu được từ bà Đặng Thị Thanh T.

Về án phí: Bà Đặng Thị Thanh T phải chịu 1.741.775 đồng. (Một triệu, bảy trăm bốn mươi mốt ngàn, bảy trăm bảy mươi lăm đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

Hoàn trả cho bà Lê Thị Thúy N số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 864.000 đồng theo biên lai thu số AA/2016/0003776 ngày 31/5/2017 tại Chi cục thi hành án dân sự thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk.

Nguyên đơn có quyền kháng cáo Bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày được tống đạt bản án hợp lệ.

Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành án theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi  hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

343
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 14/2017/DS-ST ngày 19/09/2017 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

Số hiệu:14/2017/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Buôn Hồ - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 19/09/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về