Bản án 141/2020/HS-ST ngày 25/05/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 141/2020/HS-ST NGÀY 25/05/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 25 tháng 5 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 89/2020/TLST-HS ngày 17 tháng 02 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 1996/2020/QĐXXST-HS ngày 27 tháng 4 năm 2020 đối với bị cáo:

Nguyễn Thanh B, năm sinh 1993 tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi đăng ký thường trú: B384/136 Đoàn Văn B, Phường 16, Quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh; chỗ ở: Hẻm 557, Xô Viết Nghệ T, Phường 26, quận Nguyễn Thanh B Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh; giới tính: nam; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: kinh; trình độ học vấn: 6/12; nghề nghiệp:không; cha: Nguyễn Văn S, mẹ: Lê Thị Trúc M; chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: không Bị cáo bị bắt, tạm giam 25/10/2018.(Có mặt) Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Thanh B:

Luật sư Đỗ Ngọc Oánh, thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh (Có mặt) Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

Bà Nguyễn Thị Cẩm T, sinh năm 1991 Thường trú: Thôn Phù Nam 2, xã Thủy Châu, thị xã Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên – Huế Chỗ ở: 100/53 Dương Bá T, Phường 2, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lúc 21 giờ 15 phút ngày 25/10/2018, tại trước số nhà 42 Nguyễn Khoái, Phường 2, Quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy, Công an Quận 4 bắt quả tang Nguyễn Thanh B có hành vi cất giấu trái phép chất ma túy để bán. Thu giữ túi xách màu đen của Nguyễn Thanh B đang ngồi phía sau xe gắn máy biển số 59L1-569.89 do Nguyễn Thị Cẩm T (sinh năm 1991; HKTT tai tổ 8, phường Thủy Châu, thị xã Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên – Huế; chỗ ở: 100/53 Dương Bá T, Phường 2, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh) điều khiển bên trong chứa 01 gói nylon chứa trinh thể không màu, qua giám định là ma túy ở thể không màu, qua giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 37,0545 g, loại Methamphetamine (MA); 01 gói nylon chứa chất tinh thể không màu, có khối lượng 44,6496g, loại Methamphetamine; 02 gói nylon chứa chất tinh thể không màu, có khối lượng 11,2152, loại Methamphetamine; 01 gói nylon chứa 14 viên nén màu xanh, có khối lượng 5,4651, loại MDMA; 01 gói nylon chứa chất tinh thể không màu có khối lượng 0,1397 g, loại Ketamine.

Kết luận giám định số 1761/KLGĐ-H ngày 03/11/2018 của Phòng kỹ thuận Hình sự - Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận:

- Gói 1: Tinh thể không màu được ký hiệu mẫu m1 cần giám định (đã nêu ở mực II.1) là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 37,0545g (ba bảy phẩy không năm bốn năm gam), loại Methamphetamine.

- Gói 2: Tinh thể không màu được ký hiệu mẫu m2 cần giám định (đã nếu ở trên mục II.1) là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 44,6496 (bốn bốn phẩy sáu bốn chín sáu gam), loại Methamphetamine - Gói 3:

+ Tinh thể không màu được ký hiệu mẫu m3 cần giám định (đã nêu ở mục II.1) là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 11,2152 g (một một phẩy hai một năm 2 gam), loại Methamphetamine + 14 viên nén màu xanh được ký hiệu mẫu m4 cần giám định (đã nêu ở mục II.1) là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 5,4651g (năm phẩy bốn sáu năm một gam), MDMA.

+ Tinh thể không màu được ký hiệu mẫu m5 cần giám định (đã nêu ở mục II.1) là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,1397 g (không phẩy một ba chính bảy gam), loại Ketamine.

Quá trình điều tra, Nguyễn Thanh B khai nhận: Vào khoảng 18 giờ ngày 24/10/2018, đối tượng tên Thiện (không rõ lai lịch) gọi cho Nguyễn Thanh B hỏi mua 50g ma túy đá, Nguyễn Thanh B Đồng ý. Sau đó, Nguyễn Thanh B về nhà gặp Nguyễn Thị Cẩm T mua ma túy để bán lại cho Thiện, Nguyễn Thanh B bảo giá mua là 23.000.000 đồng/50g, Nguyễn Thị Cẩm T đồng ý bán, đến ngày 25/10/2018, Nguyễn Thanh B nhắc Nguyễn Thanh B hẹn Thiện qua lấy ma túy nên Nguyễn Thanh B gọi điện cho Thiện, Thiện hẹn giao ma túy tại trước chùa Linh Quang, đường Nguyễn Khoái, Phường 2, Quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh. Nguyễn Thanh B báo lại cho Nguyễn Thị Cẩm T biết, Nguyễn Thị Cẩm T nói đợi Nguyễn Thị Cẩm T thay đồ sẽ chở Nguyễn Thanh B đi. Lúc này, Nguyễn Thị Cẩm T kêu Nguyễn Thanh B đưa túi xách để Nguyễn Thị Cẩm T bỏ ma túy vào đi giao cho khách. Nguyễn Thị Cẩm T điều khiển xe máy biển số 59L1-569.89 chở Nguyễn Thanh B ngồi phía sau ôm túi xách chứa ma túy trên đươc đi bán cho Thiện thì bị bắt quả tang cùng vật chứng như đã nêu trên. Trước khi đi giao ma túy cho Thiện, Nguyễn Thị Cẩm T còn chở Nguyễn Thanh B đi giao ma túy cho An (không rõ lai lịch) nữa hộp 5g (2.5g) ma túy đá, với giá 1.500.000 đồng tại khu vực cầu Kênh Tẻ, Quận 4. Ngoài ra, Nguyễn Thanh B còn khai tử tháng 9/2018, Nguyễn Thanh B có đến ở cùng với Nguyễn Thị Cẩm T tại nhà số 100/53 Dương Bá T, Phường 2, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh, trong quá trình ở chung Bính biết Nguyễn Thị Cẩm T bán ma túy và nhiều lần mua ma túy của Nguyễn Thị Cẩm T giá từ 300.000 đồng đến 500.000 đồng để bán lại cho người nghiện, thu lời từ 150.000 – 300.000 đồng. Riêng lần bán cho Thiện nếu thành công Nguyễn Thị Cẩm T sẽ cho Nguyễn Thanh B 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng tiêu xài.

Sau khi bị bắt, Nguyễn Thị Cẩm Nguyễn Thị Cẩm T khai nhận bản thân có hoạt động mua bán trái phép chất ma túy từ tháng 8/2018 đến nay nhưng không mua bán cùng Nguyễn Thanh B. Trong thời gian đi cai nghiện tại Nguyễn Thanh B Phước, Nguyễn Thị Cẩm T quen biết với Nguyễn Thanh B. Sau khi cai nghiện xong, Nguyễn Thị Cẩm T thấy Nguyễn Thanh B không nơi ở nên kêu về ở chung với Nguyễn Thị Cẩm T tại nhà số 100/53 Dương Bá T, Phường 2, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh. Tại đây, cả hai hoạt động mua bán ma túy trái phép nhưng không hoạt động mua bán chung. Khoảng chiều ngày 25/10/2018, Nguyễn Thị Cẩm T thấy Nguyễn Thanh B gom ma túy bỏ vào túi xách của Nguyễn Thanh B và nhờ Nguyễn Thị Cẩm T chở sang Quận 4 bán cho bạn của Nguyễn Thanh B, Nguyễn Thị Cẩm T đồng ý. Sau đó, Nguyễn Thị Cẩm T điều khiển xe gắn mày chở theo Nguyễn Thanh B mang theo túi xách đi đến trước số 42 Nguyễn K, Phường 2, Quận 4 thừ bị bắt cùng vật chứng như đã nêu trên. Khi kiểm tra túi xách thấy bên trong có nhiều gói chứa ma túy. Nguyễn Thị Cẩm T không biết số ma túy bên trong Túi xách của Nguyễn Thanh B từ đâu có. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Quận 4 tiền hành cho đối chất giữa Nguyễn Thanh B và Nguyễn Thị Cẩm Nguyễn Thị Cẩm T các bên giữ nguyên quan điểm của mình, ngoài ra Nguyễn Thị Cẩm T vẫn không thừa nhận chở Nguyễn Thanh B đi bán ma túy như đã khai nhận, trước đó nên Công an Quận 4 đã giải tỏa cho về. Ngày 02/11/2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra (PC04), Công an Thành phố Hồ Chí Minh tiến hành ghi lời khai của Nguyễn Thị Cẩm T , Nguyễn Thị Cẩm T thừa nhận có thấy Nguyễn Thanh B gom ma túy trên bàn để vào túi xách nhưng không rõ số lượng và sau đó Nguyễn Thanh B có nhờ Nguyễn Thị Cẩm T chở đi qua Quận 4 giao ma túy cho khách thì bị bắt. Trước đó, khoảng tháng 7/2018, Nguyễn Thị Cẩm T có bán ma túy cho Nguyễn Thanh B 04 lần, mỗi lần 01 hộp 10g, giá 4.500.000 đồng để Nguyễn Thanh B mang bán lại cho người khác kiếm lời.

Trong quá trình điều tra, ban đầu Nguyễn Thị Cẩm T đã thừa nhận hành vi mua bán ma túy cho Nguyễn Thanh B nhưng sau đó phản cung không thừa nhận hành vi mua bán trái phép chất ma túy cùng Nguyễn Thanh B. Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh cho rằng: ngoài lời khai của Nguyễn Thanh B không còn chứng cứ nào khác buộc Nguyễn Thị Cẩm T phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi “Mua bán trái phép chất ma túy” cùng Nguyễn Thanh B trong vụ án này nên không truy tố.

Đối với đối tượng tên Thiện do Nguyễn Thanh B khai không rõ lai lịch, địa chỉ nên Cơ quan Cảnh sát điều tra không có cơ sở xác minh làm rõ để xử lý.

Cáo trạng số 450/CT-VKS-P1 ngày 28/10/2019 của Viện Kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh truy tố bị cáo Nguyễn Thanh B về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm h khoản 3, Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017;

Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận hành vi của mình như nội dung bản Cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo như bản cáo trạng đã nêu. Sau khi tóm tắt nội dung, phân tích, đánh giá những chứng cứ xác định hành vi phạm tội của bị cáo; tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, hậu quả do hành vi phạm tội gây ra, nhân thân, vai trò của bị cáo trong vụ án, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo đã đề nghị cụ thể như sau:

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh B : 15 đến 16 năm tù, phạt bổ sung 10.000.000 đồng.

Đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết phần dân sự và xử lý vật chứng vụ án theo quy định pháp luật.

Luật sư bào chữa cho bị cáo Nguyễn Thanh B: Thống nhất với Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh vè tội danh và khung hình phạt đã truy tố. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, bản thân bị cáo phạm tội lần đầu; số ma túy bị cáo khai là bị cáo mua của Nguyễn Thị Cẩm T ; hiện nay bị cáo đang bị nhiễm HIV; bị cáo có trình độ văn hóa thấp; trong quá trình điều tra, truy tố xét xử bị cáo ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; số ma túy bị cáo thu giữ của bị cáo cũng đã hạn chế sự phát tán ra ngoài. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét xử phạt bị cáo mức án thấp hơn mức án Đại diện Viện kiểm sát đã đề nghị.

Viện kiểm sát: giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét các tình tiết luật sư bào chữa đã trình bày.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1].Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, luật sư bào chữa đã thực đúng quyền, nghĩa vụ theo quy định của pháp luật. Luật sư, bị cáo không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do vậy, các hành vi, các quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng là hợp pháp.

[2].Căn cứ lời khai của bị cáo, vật chứng thu giữ được tại hiện trường, căn cứ kết luận giám định, có cơ sở để xác định: Ngày 25/10/2018 tại số nhà 42 Nguyễn K, Phường 2, Quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh, Nguyễn Thanh B có hành vi cất giấu trái phép chất ma túy để bán, ma túy được thu giữ của Nguyễn Thanh B trong túi xách màu đen Nguyễn Thanh B đang ngồi phía sau xe gắn máy của Nguyễn Thị Cẩm T đang chở phía trước bao gồm: 92,9193 Methamphetamine ( 37,0545 g + 44,6496g + 11,2152g); 5,4651, loại MDMA và 0,1397 g, loại Ketamine. Hành vi của bị cáo đã phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo qui định tại Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Khối lượng ma túy bị cáo mua bán bao gồm 98,3844g Methamphetamine, MDMA (37,0545 g + 44,6496g + 11,2152g + 5,4651) và 0,1397 g, loại Ketamine. Căn cứ Nghị định số 19/2018/NĐ-CP ngày 02/2/2018 của Chính phủ quy định về tổng khối lượng chất ma túy, thì tổng phần trăm khối lượng của các chất ma túy Methamphetamine, MDMA và Ketamine nêu trên là 98,3% nên bị cáo phạm tội thuộc trường hợp “Có 02 chất ma túy trở lên mà tổng khối lượng hoặc thể tích của các chất đó tương đương với khối lượng hoặc thể tích chất quy định tại một trong các điểm từ a đến điểm g khoản này” nên Hội đồng xét xử áp dụng điểm h khoản 3 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 xét xử bị cáo.

[3]. Hành vi của bị cáo là đặc biệt nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ quản lý của nhà nước đối với các chất ma túy. Ma túy đã gây tác hại rất lớn và ảnh hưởng rất xấu đến sức khỏe, là nguyên nhân gây ra các tệ nạn xã hội và tội phạm, vì vậy cần phải xử phạt nghiêm để nhằm mục đích răn đe và giáo dục chung cho toàn xã hội.

[4]. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, hiện nay tình hình các tội phạm ma túy đang ngày càng gia tăng nên cần xử lý bị cáo mức hình phạt thật nghiêm khắc để răn đe và phòng ngừa chung cho toàn xã hội Đồng thời khi xem xét lượng hình, Hội đồng xét xử cũng xem xét cho bị cáo tình tiết giảm nhẹ: bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự để giảm cho bị cáo một phần hình phạt.

[5]. Ngoài ra, Hội đồng xét xử còn buộc bị cáo nộp phạt một số tiền theo qui định pháp luật để tịch thu nộp ngân sách nhà nước.

[6]. Đối với Nguyễn Thị Cẩm Nguyễn Thị Cẩm T , Theo lời khai của Nguyễn Thanh B thì: Trong thời gian từ tháng 8/2018 đến ngày bị bắt, Nguyễn Thanh B đã mua ma túy của Nguyễn Thị Cẩm T rồi đem về bán. Lời khai ban đầu của Nguyễn Thị Cẩm T cũng đã thừa nhận về việc có bán ma túy cho Nguyễn Thanh B, nhưng sau đó phản cung. Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã trả hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh để làm rõ hành vi của đối tượng Nguyễn Thị Cẩm Nguyễn Thị Cẩm T nhưng Viện kiểm sát không truy tố nên Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh không có căn cứ xét xử bị cáo. Do đó, kiến nghị Viện kiểm sát nhân dân Cấp Cao, Tòa án nhân dân Cấp Cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xem xét việc xử lý đối với đối tượng Nguyễn Thị Cẩm T .

Đối với đối tượng tên Thiện do Nguyễn Thanh B khai không rõ lai lịch, địa chỉ nên Cơ quan Cảnh sát điều tra không có cơ sở xác minh làm rõ để xử lý.

[7].Vật chứng vụ án:

*Các vật chứng gồm:

- 01 chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Thị Cẩm T .

- Giấy phép lái xe mang tên Nguyễn Thị Cẩm T (bản sao y).

- Bóp màu đỏ bên trong không chứa gì.

- Điện thoại di động: Iphone, model A1784 FCC ID:BCG-E3092A; IC:579-E3092A.

- Số tiền 5.000.000 đồng.

- Giấy mua bán xe gắn máy biển số 59L1-569.89 - Xe hai bánh gắn máy; nhãn hiệu: Vespa; loại xe: 02 bánh, số loại: Piaggio; BS: 59L1-569.89; SK: RP8M66501CV000439, SM: M669M-5006030 (không gương, xe cũ rỉ sét, máy móc bên trong không kiểm tra) Tất cả những vật chứng trên thu giữ của Nguyễn Thị Cẩm T không liên quan đến vụ án nên trả lại Nguyễn Thị Cẩm T * Các vật chứng gồm:

- Iphone, imei 355382072016051; Vivo màu đen (không kiểm tra được imei do không có nguồn điện) là phương tiện thực hiện hành vi phạm tội của bị cáo nên tịch thu, nộp ngân sách nhà nước.

- Túi đeo màu đen bên trong không chứa gì; Bóp màu đen bên trong không chứa gì; Cân điện tử ghi chữ Marllono; Cân điện tử ghi chữ 50Dollars; Gói niêm phong ghi vụ số 176/18 (1,2,3), bên ngoài có chứ ký của GĐV Phan Tấn Quốc và CBĐT Nguyễn Hữu Phúc, bên trong là ma túy còn lại sau giám định. Đây là vật chứng liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo, không còn giá trị sử dụng; chất cấm sử dụng, cấm lưu hành nên tịch thu tiêu hủy.

- Giấy chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Thanh B; Giấy phép lái xe mang tên Nguyễn Thanh B là các giấy tờ tùy thân của bị cáo, không liên quan đến vụ án nên trả lại cho Nguyễn Thanh B.

- Số tiền thu giữ của bị cáo: 1.500.000 đồng, không liên quan đến vụ án nên trả lại cho bị cáo nhưng giao cho Cục thi hành án Dân sự Thành phố Hồ Chí Minh tạm giữ để thi hành án đối với số tiền phạt bổ sung của bị cáo Nguyễn Thanh B.

(Biên bản giao nhận tang tài vật số 68/20 ngày 13/11/2019 của Cục thi hành án Dân sự Thành phố Hồ Chí Minh; Giấy nộp tiền của Ngân hàng TMCP Công thương Viện Nam ngày 08/7/2019) Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm h khoản 3, khoản 5 Điều 251 điểm s khoản 1 Điều 51; Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017;

Xử phạt Nguyễn Thanh B 16 (mười sáu) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 25/10/2018.

Buộc bị cáo nộp phạt bổ sung số tiền: 10.000.000 (mười triệu) đồng để nộp ngân sách nhà nước.

2. Xử lý vật chứng:

- Căn cứ Điều 47, 48 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015;

* Tịch thu tiêu hủy:

- Túi đeo màu đen bên trong không chứa gì.

- Bóp màu đen bên trong không chứa gì.

- Cân điện tử ghi chữ Marllono.

- Cân điện tử ghi chữ 50Dollars - Gói niêm phong ghi vụ số 176/18 (1,2,3), bên ngoài có chứ ký của GĐV Phan Tấn Quốc và CBĐT Nguyễn Hữu Phúc, bên trong là ma túy còn lại sau giám định.

* Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước: Iphone, imei 355382072016051; Vivo màu đen (không kiểm tra được imei do không có nguồn điện) * Trả lại cho Nguyễn Thị Cẩm T :

- 01 chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Thị Cẩm T ; Giấy phép lái xe mang tên Nguyễn Thị Cẩm T (bản sao y).

- Bóp màu đỏ bên trong không chứa gì.

- Điện thoại di động: Iphone, model A1784 FCC ID:BCG-E3092A; IC:579-E3092A;

- Số tiền 5.000.000 (năm triệu) đồng.

- Giấy mua bán xe gắn máy biển số 59L1-569.89.

- Xe hai bánh gắn máy; nhãn hiệu: Vespa; loại xe: 02 bánh, số loại: Piaggio; BS: 59L1-569.89; SK: RP8M66501CV000439, SM: M669M-5006030 (không gương, xe cũ rỉ sét, máy móc bên trong không kiểm tra) * Trả lại cho bị cáo Nguyễn Thanh B:

- Giấy chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Thanh B; Giấy phép lái xe mang tên Nguyễn Thanh B;

- Số tiền 1.500.000 (một triệu năm trăm ngàn) đồng nhưng giao cho Cục thi hành án Dân sự Thành phố Hồ Chí Minh tạm giữ để thi hành án đối với số tiền phạt bổ sung của bị cáo.

(Biên bản giao nhận tang tài vật số 68/20 ngày 13/11/2019 của Cục thi hành án Dân sự Thành phố Hồ Chí Minh; Giấy nộp tiền của Ngân hàng TMCP Công thương Viện Nam ngày 08/7/2019) 3. Về Án phí:

- Căn cứ Luật phí và lệ phí năm 2015Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016;

Buộc bị cáo nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kề từ ngày tuyên án; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

196
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 141/2020/HS-ST ngày 25/05/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:141/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về