Bản án 140/2018/HNGĐ-ST ngày 01/10/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUỶ NGUYÊN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 140/2018/HNGĐ-ST NGÀY 01/10/2018 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 01 tháng 10 năm 2018 tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện Thuỷ Nguyên, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 541/2018/TLST-HNGĐ ngày 01 tháng 8 năm 2018 về tranh chấp ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 182/2018/QĐXX-ST ngày 13 tháng 9 năm 2018 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Nguyễn Xuân C, sinh năm 1983; địa chỉ: Thôn 3, xã C, huyện T, thành phố Hải Phòng;

- Bị đơn: Chị Vũ Thị Y, sinh năm 1983; địa chỉ: Thôn 3, xã C, huyện T, thành phố Hải Phòng. 

Anh C và chị Y đều vắng mặt và có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 09 tháng 7 năm 2018 và trong quá trình xét xử, nguyên đơn Nguyễn Xuân C trình bày:

Về hôn nhân: Anh C và chị Vũ Thị Y kết hôn với nhau do tự nguyện, được tổ chức lễ cưới theo phong tục địa phương năm 2009, nhưng không đăng kí kết hôn, đến nay vẫn không đăng kí kết hôn. Sau cưới vợ chồng chung sống tại xã C, huyện T. Cuộc sống hoà thuận, hạnh phúc đến năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn và sống ly thân, nguyên nhân mâu thuẫn do tính tình vợ chồng không hòa hợp, không quan tâm đến nhau. Nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, anh C xin ly hôn chị Y.

Về con chung: Anh C và chị Vũ Thị Y có hai con chung Nguyễn Minh T, sinh năm 2011 và Nguyễn Vũ Minh K, sinh năm 2014. Khi ly hôn, để cho chị Y trực tiếp nuôi cả hai con; không yêu cầu giải quyết về nghĩa vụ cấp dưỡng. 

Về tài sản chung và vay nợ chung: Anh C và chị Vũ Thị Y không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Lời khai trong quá trình xét xử bị đơn Vũ Thị Y trình bày: Thống nhất toàn bộ lời trình bày của anh Nguyễn Xuân C về hôn nhân, con chung, tài sản chung và vay nợ; thừa nhận tính hợp pháp của các tài liệu, chứng cứ anh C đã nộp cho Tòa án. Chị Y có quan điểm đồng ý ly hôn anh C, đề nghị giải quyết về con chung và đồng ý nhận nuôi cả hai con chung Nguyễn Minh T và Nguyễn Vũ Minh K; không yêu cầu giải quyết về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

Ông Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật và về việc giải quyết vụ án như sau: Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã tuân theo đúng quy định của pháp luật Tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án; Nguyên đơn và bị đơn đã chấp hành đúng quy định của pháp luật kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 14 và khoản 2 Điều 53 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 xử không công nhận anh Nguyễn Xuân C và chị Vũ Thị Y là vợ chồng; công nhận sự thỏa thuận về con chung, giao con Nguyễn Minh T sinh năm 2011 và Nguyễn Vũ Minh K sinh năm 2014 cho chị Vũ Thị Y trực tiếp nuôi cho đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật; anh C phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử thấy:

[1] Về tố tụng: Anh Nguyễn Xuân C và chị Vũ Thị Y đã được Tòa án triệu tập đến phiên tòa hợp lệ nhưng có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, căn cứ khoản 1 Điều 238 của BLTTDS Toà án tiến hành xét xử vắng mặt anh C và chị Y.

[2] Về hôn nhân: Anh Nguyễn Xuân C và chị Vũ Thị Y tự nguyện chung sống như vợ chồng từ năm 2009 đến năm 2017 có đủ điều kiện kết hôn theo Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 và Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 nhưng không đăng kí kết hôn nên được xác định là hôn nhân không hợp pháp. Việc anh Nguyễn Xuân C yêu cầu ly hôn chị Vũ Thị Y, cần áp dụng khoản 1 Điều 11 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000, điểm b khoản 3 Nghị quyết số 35/NQ-2000/QH-10 ngày 09/6/2000 của Quốc hội về thi hành Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000; Điều 14 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 để giải quyết không công nhận anh Nguyễn Xuân C và chị Vũ Thị Y là vợ chồng.

[3] Về con chung: Trong thời gian chung sống như vợ chồng, anh Nguyễn Xuân C và chị Vũ Thị Y có hai con chung Nguyễn Minh T sinh năm 2011 và Nguyễn Vũ Minh K sinh năm 2014. Anh C và chị Y yêu cầu giải quyết việc nuôi con chung, việc các bên thỏa thuận để chị Y trực tiếp nuôi hai con là phù hợp với nguyện vọng của con, bảo đảm được lợi ích toàn diện của con theo quy định tại Điều 81 và Điều 82 của Luật Hôn nhân và Gia đình nên chấp nhận; về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung, anh C và chị Y thỏa thuận tự giao nhận cho nhau, không yêu cầu nên không xét giải quyết.

[4] Về quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng giữa các bên: Anh Nguyễn Xuân C và chị Vũ Thị Y không có, không yêu cầu nên không xét giải quyết.

[5] Về án phí: Anh Nguyễn Xuân C phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm.

Như vậy, ý kiến của ông Kiểm sát viên đã phát biểu tại phiên tòa về việc tuân theo pháp luật và về việc giải quyết vụ án là phù hợp pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 147 và khoản 1 Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 11 và khoản 2 Điều 17 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000; điểm b khoản 3 Nghị quyết số 35/NQ-2000/QH-10 ngày 09 tháng 6 năm 2000 của Quốc hội về thi hành Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000; các điều 15 và 16 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; tuyên bố:

Không công nhận anh Nguyễn Xuân C và chị Vũ Thị Y là vợ chồng.

Về quyền, nghĩa vụ của cha, mẹ và con: Công nhận sự thỏa thuận, giao hai con Nguyễn Minh T sinh ngày 20 tháng 02 năm 2011 và Nguyễn Vũ Minh K sinh ngày 23 tháng 7 năm 2014 cho chị Vũ Thị Y trực tiếp nuôi cho đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Anh Nguyễn Xuân C và chị Vũ Thị Y tự giao nhận cho nhau, không yêu cầu nên không xét giải quyết.

Về quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng giữa các bên: Anh Nguyễn Xuân C và chị Vũ Thị Y không có, không yêu cầu nên không xem xét.

Về án phí: Anh Nguyễn Xuân C phải chịu 300.000 (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng anh C đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thuỷ Nguyên, thành phố Hải Phòng biên lai số 0009264 ngày 01 tháng 8 năm 2018. Anh C đã nộp đủ án phí.

Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Về quyền yêu cầu thi hành án, nghĩa vụ thi hành án: Bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

220
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 140/2018/HNGĐ-ST ngày 01/10/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:140/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 01/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về