Bản án 139/2019/HS-ST ngày 15/11/2019 về tội cướp giật tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN TÂN BÌNH - TP. HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 139/2019/HS-ST NGÀY 15/11/2019 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 15 tháng 11 năm 2019 tại trụ sở Toà án nhân dân quận Tân Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 139/2019/TLST-HS ngày 01 tháng 11 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 165/2019/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 11 năm 2019 đối với bị cáo:

NGUYỄN NGỌC C; sinh năm 1992 tại Thành phố Hồ Chí Minh; Nơi đăng ký thường trú: đường D, Phường K, Quận L, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 2/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Văn K và bà: Ngô Ngọc H; vợ : Vũ Thị Ánh T (không đăng ký kết hôn); con : 01 người; tiền án: không; tiền sự: không. Tạm giữ, tạm giam: 22/4/2019 (Có mặt) - Bị hại: Anh Lâm Thuận L – sinh năm 1967; HKTT: đường L, phường M, Thành phố V, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 19 giờ 15’ ngày 22/4/2019, Nguyễn Ngọc C điều khiển xe máy biển số 63B9 - 887.55, số máy 5C64 - 328957 lưu thông trên đường Cộng Hòa thì phát hiện anh Lâm Thuận L đi bộ trên lề đường trước nhà số 485 Cộng Hòa, phường 15, quận Tân Bình trên tay cầm điện thoại di động nên nảy sinh ý định chiếm đoạt. C điều khiển xe máy chạy lên lề đường, áp sát bên phải anh L rồi dùng tay trái cướp giật điện thoại sau đó tăng ga bỏ chạy thì có anh Phạm Hoàng A và anh Ngô Quốc T truy đuổi liên tục. Khi đến giao lộ Trường Chinh - Tân Kỳ Tân Quý, phường 15, quận Tân Bình thì C bị bắt giữ giao Công an phường 15, quận Tân Bình.

Tại cơ quan điều tra, C thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như trên.

Kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự số 159/HĐĐGTS - TTHS ngày 26/7/2019 của Hội đồng định giá kết luận điện thoại di động hiệu Xiaomi Redmi 6 Pro 32GB màu đen trị giá 2.400.000 đồng.

Vật chứng thu giữ:

+ 01 điện thoại di động Xiaomi Redmi 6 Pro 32GB màu đen đã trả lại bị hại.

+ Qua xác minh, xe máy tang vật được cấp biển số 85L1 - 7943 là của anh Lê N, anh N cho con là Lê Quốc N sử dụng. Khoảng tháng 5/2018, anh N đã bị trộm cắp xe máy trên địa bàn quận Bình Tân. Nguyễn Ngọc C khai xe máy trên là của mẹ ruột là bà Ngô Ngọc H. Bà H cho biết mua xe máy trên từ cửa hàng của anh Dương Văn L, có giấy đăng ký xe mang tên Võ Thị Thu Hà mua bán chỉ làm giấy tay, chưa sang tên. Anh L cho biết mua xe máy trên từ một nam thanh niên không rõ lai lịch, không làm giấy tờ mua bán; 01 giấy đăng ký xe mang tên Võ Thị Thu Hà – địa chỉ 20/5C Lý Công Uẩn, phường 1 Thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang, qua giám định xác định là giả. Cơ quan Cảnh sát điều tra quận Tân Bình đã bàn giao cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh điều tra theo thẩm quyền.

+ 01 biển số 63B9 - 887.55. Qua xác minh, biển số 63B9 - 887. 55 cấp cho xe máy của chị Nguyễn Thị Kim Châu, hiện nay không rõ nơi cư trú.

+ Thu giữ của C: 01 điện thoại di động Itel màu đỏ; 01 áo thun có cổ màu tím, 01 quần jean dài màu xanh.

Quá trình điều tra Nguyễn Ngọc C thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội.

Tại bản cáo trạng số 137/CTr-VKS ngày 28 tháng 10 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình đã truy tố bị cáo Nguyễn Ngọc C về tội “Cướp giật tài sản” theo điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát tại phần luận tội đã tóm tắt lại hành vi phạm tội của bị cáo, nêu ra các nguyên nhân, điều kiện phạm tội, nêu rõ tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các điểm h, s khoản 1 Điều 51, điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc C từ 04 đến 05 năm tù.

Về vật chứng đề nghị xử lý theo quy định pháp luật.

Tại phiên tòa bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội như cáo trạng Viện kiểm sát đã truy tố, lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan cảnh sát điều tra, lời khai của bị hại, người làm chứng, vật chứng thu giữ và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Đồng thời bị cáo khai nhận, do thấy anh L sử dụng điện thoại bị cáo nảy sinh lòng tham đã thực hiện hành vi cướp giật như cáo trạng đã nêu.

Sau phần luận tội của Viện kiểm sát, bị cáo không tranh luận, bào chữa mà chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, tạo điều kiện cho bị cáo sớm trở về với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Trong quá trình điều tra, truy tố bị cáo Nguyễn Ngọc C, Điều tra viên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Tân Bình, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình được phân công điều tra giải quyết vụ án đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Căn cứ diễn biến tại phiên tòa, thông qua phần xét hỏi, tranh luận nhận thấy lời khai, chứng cứ phạm tội phù hợp với tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án; bị cáo, bị hại, không có ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều phù hợp với quy định của pháp luật.

[2] Xét thấy lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với bản kết luận điều tra của cơ quan cảnh sát điều tra, bản cáo trạng của Viện kiểm sát, lời khai của bị hại, người làm chứng cùng tang vật, các tài liệu chứng cứ khác thu được trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà. Hội đồng xét xử xét thấy đủ cơ sở kết luận bị cáo Nguyễn Ngọc C có hành vi điều khiển xe gắn máy áp sát rồi công khai giật điện thoại di động hiệu Xiaomi Redmi 6 Pro 32GB màu đen trị giá 2.400.000 đồng của anh Lâm Thuận L đã phạm vào tội “Cướp giật tài sản”, thuộc trường hợp “Dùng thủ đoạn nguy hiểm” là tình tiết định khung hình phạt được quy định tại điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Hành vi phạm tội của bị cáo là rất táo bạo, liều lĩnh ngang nhiên chiếm đoạt tài sản của người khác ngay trên đường phố nơi đông người và dùng thủ đoạn nguy hiểm là xe gắn máy phân khối lớn, là nguồn nguy hiểm cao độ làm phương tiện phạm tội, tiềm ẩn nguy cơ dễ gây nguy hiểm đến tính mạng, sức khỏe của người bị hại và những người đang lưu thông trên đường. Xét về tính chất vụ án là nghiêm trọng, bị cáo đã thành niên, đủ khả năng nhận thức hành vi cướp giật tài sản của người khác bị pháp luật nghiêm cấm và trừng trị nhưng chỉ vì muốn có tiền tiêu xài nên bị cáo đã cố tình thực hiện tội phạm, chứng tỏ bị cáo có thái độ xem thường pháp luật. Xét nhân thân bị cáo là xấu (năm 2014 đã bị xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội cướp giật tài sản), bị cáo nghiện ma tuý. Vì vậy, Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết áp dụng hình phạt tù có thời hạn, tiếp tục cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định nhằm mục đích giáo dục, cải tạo bị cáo đồng thời có tác dụng răn đe, phòng ngừa chung.

[3] Về tình tiết giảm nhẹ: Hội đồng xét xử có xem xét các tình tiết: trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tài sản đã được thu hồi, trả lại cho bị hại để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo theo quy định tại điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

[4] Về vật chứng vụ án:

Đối với 01 điện thoại di động Itel màu đỏ. Xét đây là tài sản cá nhân không liên quan đến hành vi phạm tội nên Hội đồng xét xử thống nhất trả lại cho bị cáo.

- 01 áo thun có cổ màu tím; 01 quần Jeans dài màu xanh; 01 biển số xe 63B9-887.55 là những vật không còn giá trị nên cần tịch thu tiêu huỷ.

[5] Về trách nhiệm dân sự: bị hại không có yêu cầu nên bị cáo không phải chịu trách nhiệm dân sự.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm d khoản 2 Điều 171, điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017;

Căn cứ Điều 106, Điều 135 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015; Luật phí, lệ phí năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQHQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

[1] Tuyên bố bị cáo Nguyễn Ngọc C phạm tội “Cướp giật tài sản”.

Xử phạt: Nguyễn Ngọc C 03 (Ba) năm 09 (Chín) tháng tù về tội “Cướp giật tài sản”.

Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 22/4/2019.

[2] Trả lại cho bị cáo Nguyễn Ngọc C: 01 điện thoại di động Itel màu đỏ.

- Tịch thu tiêu huỷ: 01 áo thun có cổ màu tím; 01 quần Jeans dài màu xanh; 01 biển số xe 63B9-887.55.

(Theo Phiếu nhập kho vật chứng số 171/PNK ngày 04/10/2019 của Công an quận Tân Bình).

[3] Bị cáo phải chịu 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng án phí Hình sự sơ thẩm.

[4] Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo có quyền kháng cáo. Bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao án hoặc ngày Tòa án tống đạt, niêm yết bản án hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

235
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 139/2019/HS-ST ngày 15/11/2019 về tội cướp giật tài sản

Số hiệu:139/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Tân Bình - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về